Ảnh hưởng của thức ăn bổ sung bã sữa đậu nành lên men bán rắn đến tăng trưởng và hình thái ruột của cá rô phi (Oreochromis niloticus)
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 667.73 KB
Lượt xem: 23
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Xử lý phụ phế phẩm từ nông nghiệp nhằm nâng cao giá trị dinh dưỡng bã sữa đậu nành (BSĐN) ở dạng dễ hấp thu để sử dụng làm thức ăn thủy sản đang được đặc biệt chú trọng. Sản phẩm phụ phẩm bã sữa đậu nành lên men bán rắn bằng vi khuẩn Bacillus subtilis B3 được sử dụng làm nguyên liệu thay thế protein bột cá trong công thức thức ăn (CTTA) cá rô phi được đánh giá và kiểm tra ảnh hưởng lên hệ tiêu hóa của cá.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ảnh hưởng của thức ăn bổ sung bã sữa đậu nành lên men bán rắn đến tăng trưởng và hình thái ruột của cá rô phi (Oreochromis niloticus) VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN BỔ SUNG BÃ SỮA ĐẬU NÀNH LÊN MEN BÁN RẮN ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ HÌNH THÁI RUỘT CỦA CÁ RÔ PHI (Oreochromis niloticus) Nguyễn Thành Trung1*, Nguyễn Văn Nguyện1, Trần Văn Khanh1, Lê Hoàng1, Trần Thị Lệ Trinh1, Đinh Thị Mến1, Nông Thị Nương1, Huỳnh Thị Thảo Quyên1, Nguyễn Thị Ngọc Tĩnh2 TÓM TẮT Xử lý phụ phế phẩm từ nông nghiệp nhằm nâng cao giá trị dinh dưỡng bã sữa đậu nành (BSĐN) ở dạng dễ hấp thu để sử dụng làm thức ăn thủy sản đang được đặc biệt chú trọng. Sản phẩm phụ phẩm bã sữa đậu nành lên men bán rắn bằng vi khuẩn Bacillus subtilis B3 được sử dụng làm nguyên liệu thay thế protein bột cá trong công thức thức ăn (CTTA) cá rô phi được đánh giá và kiểm tra ảnh hưởng lên hệ tiêu hóa của cá. BSĐN lên men được sử dụng thay thế trong CTTA cá rô phi ở các mức 70, 80, 90 và 100% bột cá và thức ăn chứa bột cá (ĐC). Thí nghiệm được thực hiện trong 8 tuần trong bể composite, 15 con/bể, lặp lại 3 lần cho mỗi nghiệm thức. Đánh giá tăng trưởng, các chỉ số sinh học như VSI, HSI, GSI và ISI sau khi nuôi. Kiểm tra hình thái mô học của ruột qua các chỉ số chiều dài, độ rộng, mô liên kết và lớp dưới niêm mạc. Kết quả cho thấy cá ở nghiệm thức thay thế bột cá ở mức 90% tăng 3,6g so với đối chứng sau 8 tuần nuôi. Chỉ số sinh học như VSI tăng cao ở các thức ăn bổ sung BSĐN, chỉ số HSI và GSI không có sự khác biệt với thức ăn đối chứng và chỉ số ISI ở nhóm thức ăn thay thế tương đương đối chứng ngoại trừ khi thay thế 100%. Hình thái mô ruột của các nghiệm thức thay thế bột cá đều tăng cao so với nghiệm thức đối chứng. Kết quả cho thấy có thể thay thế bột cá bằng BSĐN lên men trong CTTA cá rô phi và không gây ảnh hưởng đến sự tăng trưởng cá và không ảnh hưởng đến sức khỏe của cá. Từ khóa: Rô phi, bã sữa đậu nành lên men bán rắn, nhung mao, hình thái ruột. I. GIỚI THIỆU 2011). Một nghiên cứu khác sử dụng phụ phẩm Hiện nay nhu cầu sử dụng đậu nành cho từ chế biến sữa đậu nành ở mức 10% và 20% thực phẩm gia tăng nhanh chóng, các phụ phẩm trong khẩu phần ăn của tôm thẻ chân trắng được từ ngành công nghiệp chế biến sữa đậu nành thử nghiệm tại Hawaii năm 2010, kết quả tăng rất lớn, riêng sản lượng bã sữa đậu nành ở nhà trưởng kém do độ tiêu hóa thức ăn ở mức rất máy Vinasoy khoảng 1.200 tấn/tháng. Mỗi kg thấp 18,2% (Forster và ctv., 2010). đậu nành sản xuất sữa có lượng phụ phế phẩm Các nghiên cứu tiến hành xử lý nguồn phụ khoảng 1,1 kg phụ phẩm từ chế biến sữa đậu phẩm này, trong đó việc ứng dụng công nghệ lên nành (O’Toole, 1999). men và thủy phân các nguyên liệu để tạo ra sản Các thử nghiệm sử dụng bã sữa đậu nành phẩm có giá trị tiêu hóa cao để sử dụng trong (BSĐN) làm thức ăn trên đối tượng nuôi thủy thức ăn thủy sản vẫn chưa được nghiên cứu đầy sản còn rất ít. Trên cá rô phi đơn tính, nhóm tác đủ. Các phương pháp và chủng loại vi khuẩn giả ở Ai Cập đã thử nghiệm sử dụng trực tiếp lên men khác nhau trên BSĐN sẽ cho ra các sản phụ phẩm từ chế biến sữa đậu nành vào khẩu phẩm hữu ích và đặc hiệu khác nhau (Ma và phần thức ăn có thể thay thế đến 75% bột cá mà ctv., 1997). Có rất nhiều chủng vi sinh được sử không có sự khác biệt về tăng trưởng (El-Saidy, dụng để lên men phụ phẩm từ chế biến sữa đậu 1 Trung tâm Công nghệ thức ăn và Sau thu hoạch thủy sản, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II. 2 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II. *Email: ng.ttrung@yahoo.com TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019 79 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II nành tạo ra các sản phẩm đặc thù từ các chủng vi vân (Feng và ctv., 2007; Yamamoto và ctv., sinh khác nhau. Sử dụng chủng vi sinh Bacillus 2010). Khi lên men bã đậu nành với vi khuẩn B. subtilis NB22 để tạo ra kháng sinh lipopeptide, subtilis cho thấy tiêu hóa được cải thiện (Kiers Iturin A (Ohno và ctv., 1996), chủng NRRL và ctv., 2000), tăng hàm lượng protein, tăng hoạt 330+NCIM 653 để tạo ra citric acid (Khare và tính oxi hóa, và giảm các tác nhân kháng dinh ctv., 1995), chủng Aspergillus japonicus MU-2 dưỡng như trypsin và kháng protein (Teng và cho sản phẩm β-fructofuranosidase (Hayashi. ctv., 2012). Cá hồi khi ăn thức ăn chứa đậu nành và ctv., 1992), chủng Bacillus subtilis để thu lên men cải thiện hình thái mô ruột (Yamamoto nhận hợp chất phenolic (Chung và ctv., 2011), và ctv., 2012). và chủng Flammulina velutipes để thu nhận Vi khuẩn Bacillus subtilis B3 sử dụng sản phẩm polysaccharides (Shi và ctv., 2012). trong nghiên cứu này là một chủng vi khuẩn có Nghiên cứu của (Matsuo, 1989) khi lên men khả năng tiết ra enzyme protease, cellulase và phụ phẩm từ chế biến sữa đậu nành bằng nấm amylase ngoại bào có hoạt tính mạnh, là kết quả Rhizopus oligosporus có hàm lượng nitrogen từ dự án “Hoàn thiện và sản xuất thử nghiệm chế tan tăng 0,15% lên 0,84%, thêm vào đó acid phẩm vi sinh BioShimp-RIA2 phòng bệnh do amin tự do tăng mạnh từ 0,02% lên 0,41%. Vibrio spp. gây ra trên tôm nuôi” của do nhóm Công nghệ lên men phụ phẩm từ chế biến sữa nghiên cứu (Nguyễn Thị Ngọc Tĩnh, 2016), đậu nành bán rắn truyền thống, cho thấy tăng Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II thực hàm lượng protein từ 22% lên 25%, và các hiện, được sử dụng để lên men bán rắn BSĐN protein bị cắt thành những mạch peptide nhỏ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ảnh hưởng của thức ăn bổ sung bã sữa đậu nành lên men bán rắn đến tăng trưởng và hình thái ruột của cá rô phi (Oreochromis niloticus) VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN BỔ SUNG BÃ SỮA ĐẬU NÀNH LÊN MEN BÁN RẮN ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ HÌNH THÁI RUỘT CỦA CÁ RÔ PHI (Oreochromis niloticus) Nguyễn Thành Trung1*, Nguyễn Văn Nguyện1, Trần Văn Khanh1, Lê Hoàng1, Trần Thị Lệ Trinh1, Đinh Thị Mến1, Nông Thị Nương1, Huỳnh Thị Thảo Quyên1, Nguyễn Thị Ngọc Tĩnh2 TÓM TẮT Xử lý phụ phế phẩm từ nông nghiệp nhằm nâng cao giá trị dinh dưỡng bã sữa đậu nành (BSĐN) ở dạng dễ hấp thu để sử dụng làm thức ăn thủy sản đang được đặc biệt chú trọng. Sản phẩm phụ phẩm bã sữa đậu nành lên men bán rắn bằng vi khuẩn Bacillus subtilis B3 được sử dụng làm nguyên liệu thay thế protein bột cá trong công thức thức ăn (CTTA) cá rô phi được đánh giá và kiểm tra ảnh hưởng lên hệ tiêu hóa của cá. BSĐN lên men được sử dụng thay thế trong CTTA cá rô phi ở các mức 70, 80, 90 và 100% bột cá và thức ăn chứa bột cá (ĐC). Thí nghiệm được thực hiện trong 8 tuần trong bể composite, 15 con/bể, lặp lại 3 lần cho mỗi nghiệm thức. Đánh giá tăng trưởng, các chỉ số sinh học như VSI, HSI, GSI và ISI sau khi nuôi. Kiểm tra hình thái mô học của ruột qua các chỉ số chiều dài, độ rộng, mô liên kết và lớp dưới niêm mạc. Kết quả cho thấy cá ở nghiệm thức thay thế bột cá ở mức 90% tăng 3,6g so với đối chứng sau 8 tuần nuôi. Chỉ số sinh học như VSI tăng cao ở các thức ăn bổ sung BSĐN, chỉ số HSI và GSI không có sự khác biệt với thức ăn đối chứng và chỉ số ISI ở nhóm thức ăn thay thế tương đương đối chứng ngoại trừ khi thay thế 100%. Hình thái mô ruột của các nghiệm thức thay thế bột cá đều tăng cao so với nghiệm thức đối chứng. Kết quả cho thấy có thể thay thế bột cá bằng BSĐN lên men trong CTTA cá rô phi và không gây ảnh hưởng đến sự tăng trưởng cá và không ảnh hưởng đến sức khỏe của cá. Từ khóa: Rô phi, bã sữa đậu nành lên men bán rắn, nhung mao, hình thái ruột. I. GIỚI THIỆU 2011). Một nghiên cứu khác sử dụng phụ phẩm Hiện nay nhu cầu sử dụng đậu nành cho từ chế biến sữa đậu nành ở mức 10% và 20% thực phẩm gia tăng nhanh chóng, các phụ phẩm trong khẩu phần ăn của tôm thẻ chân trắng được từ ngành công nghiệp chế biến sữa đậu nành thử nghiệm tại Hawaii năm 2010, kết quả tăng rất lớn, riêng sản lượng bã sữa đậu nành ở nhà trưởng kém do độ tiêu hóa thức ăn ở mức rất máy Vinasoy khoảng 1.200 tấn/tháng. Mỗi kg thấp 18,2% (Forster và ctv., 2010). đậu nành sản xuất sữa có lượng phụ phế phẩm Các nghiên cứu tiến hành xử lý nguồn phụ khoảng 1,1 kg phụ phẩm từ chế biến sữa đậu phẩm này, trong đó việc ứng dụng công nghệ lên nành (O’Toole, 1999). men và thủy phân các nguyên liệu để tạo ra sản Các thử nghiệm sử dụng bã sữa đậu nành phẩm có giá trị tiêu hóa cao để sử dụng trong (BSĐN) làm thức ăn trên đối tượng nuôi thủy thức ăn thủy sản vẫn chưa được nghiên cứu đầy sản còn rất ít. Trên cá rô phi đơn tính, nhóm tác đủ. Các phương pháp và chủng loại vi khuẩn giả ở Ai Cập đã thử nghiệm sử dụng trực tiếp lên men khác nhau trên BSĐN sẽ cho ra các sản phụ phẩm từ chế biến sữa đậu nành vào khẩu phẩm hữu ích và đặc hiệu khác nhau (Ma và phần thức ăn có thể thay thế đến 75% bột cá mà ctv., 1997). Có rất nhiều chủng vi sinh được sử không có sự khác biệt về tăng trưởng (El-Saidy, dụng để lên men phụ phẩm từ chế biến sữa đậu 1 Trung tâm Công nghệ thức ăn và Sau thu hoạch thủy sản, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II. 2 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II. *Email: ng.ttrung@yahoo.com TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019 79 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II nành tạo ra các sản phẩm đặc thù từ các chủng vi vân (Feng và ctv., 2007; Yamamoto và ctv., sinh khác nhau. Sử dụng chủng vi sinh Bacillus 2010). Khi lên men bã đậu nành với vi khuẩn B. subtilis NB22 để tạo ra kháng sinh lipopeptide, subtilis cho thấy tiêu hóa được cải thiện (Kiers Iturin A (Ohno và ctv., 1996), chủng NRRL và ctv., 2000), tăng hàm lượng protein, tăng hoạt 330+NCIM 653 để tạo ra citric acid (Khare và tính oxi hóa, và giảm các tác nhân kháng dinh ctv., 1995), chủng Aspergillus japonicus MU-2 dưỡng như trypsin và kháng protein (Teng và cho sản phẩm β-fructofuranosidase (Hayashi. ctv., 2012). Cá hồi khi ăn thức ăn chứa đậu nành và ctv., 1992), chủng Bacillus subtilis để thu lên men cải thiện hình thái mô ruột (Yamamoto nhận hợp chất phenolic (Chung và ctv., 2011), và ctv., 2012). và chủng Flammulina velutipes để thu nhận Vi khuẩn Bacillus subtilis B3 sử dụng sản phẩm polysaccharides (Shi và ctv., 2012). trong nghiên cứu này là một chủng vi khuẩn có Nghiên cứu của (Matsuo, 1989) khi lên men khả năng tiết ra enzyme protease, cellulase và phụ phẩm từ chế biến sữa đậu nành bằng nấm amylase ngoại bào có hoạt tính mạnh, là kết quả Rhizopus oligosporus có hàm lượng nitrogen từ dự án “Hoàn thiện và sản xuất thử nghiệm chế tan tăng 0,15% lên 0,84%, thêm vào đó acid phẩm vi sinh BioShimp-RIA2 phòng bệnh do amin tự do tăng mạnh từ 0,02% lên 0,41%. Vibrio spp. gây ra trên tôm nuôi” của do nhóm Công nghệ lên men phụ phẩm từ chế biến sữa nghiên cứu (Nguyễn Thị Ngọc Tĩnh, 2016), đậu nành bán rắn truyền thống, cho thấy tăng Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II thực hàm lượng protein từ 22% lên 25%, và các hiện, được sử dụng để lên men bán rắn BSĐN protein bị cắt thành những mạch peptide nhỏ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nuôi trồng thủy sản Bài viết về ngư nghiệp Bã sữa đậu nành lên men bán rắn Vi khuẩn Bacillus subtilis Chủng Flammulina velutipesTài liệu có liên quan:
-
78 trang 370 3 0
-
Tổng quan về việc sử dụng Astaxanthin trong nuôi trồng thủy sản
10 trang 311 0 0 -
Thông tư số 08/2019/TT-BNNPTNT
7 trang 264 0 0 -
2 trang 234 0 0
-
225 trang 232 0 0
-
Tìm hiểu các kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản (Tập 1): Phần 1
66 trang 206 0 0 -
Triển khai chương trình phát triển bền vững quốc gia trong ngành thủy sản
7 trang 191 0 0 -
13 trang 189 0 0
-
91 trang 186 0 0
-
8 trang 171 0 0