Danh mục tài liệu

BÁO CÁO MỘT SỐ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT NHẰM NÂNG CAO TỶ LỆ SỐNG CỦA ẤU TRÙNG CUA BIỂN

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 334.71 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Qua quá trình nghiên cứu và thực nghiệm chúng tôi nhận thấy có một số phương pháp sau đây làm tăng tỷ lệ sống của ấu trùng cua biển loài Scylla paramamosain. (1). Sử dụng kết hợp thức ăn trong giai đoạn đầu: Dùng kết hợp thức ăn rotifer và artemia ở giai đoạn ấu trùng zoea1 làm tăng tỷ lệ sống từ 6,6% lên 10,5%, bên cạnh đó việc kết hợp thức ăn như trên còn làm giảm được chi phí sản xuất, tăng hiệu quả kinh tế. (2). Thay đổi giai đoạn san thưa và chuyển bể: Sự...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BÁO CÁO " MỘT SỐ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT NHẰM NÂNG CAO TỶ LỆ SỐNG CỦA ẤU TRÙNG CUA BIỂN " MỘT SỐ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT NHẰM NÂNG CAO TỶ LỆ SỐNG CỦA ẤU TRÙNG CUA BIỂN Scylla paramamosain, Estampador 1949SOME TECHNICAL SOLUTIONS FOR IMPROVEMENT OF MUD CRAB (SCYLLA PARAMAMOSAIN) LARVAE SURVIVAL RATE Nguyễn Quốc Thể1 Phân Viện Nghiên Cứu Thuỷ Sản Minh Hải, 21 – 24 Phan Ngọc Hiển, Phường 6, Thành phố Cà MauABSTRACT Through experiments and experience in mud crab hatchery, some solutions have beenfound for improvement of S.paramamosain larvae survival rate. They were the combinationof feed in the first stage and the reduce of larvae density alongs with the change of larvaestorage tanks at Zoae 3 and Zoae 5 stages. In fact, the combination of rotifer and artemia inthe Zoae 1 stage had increased the survival rate from 6.6% to 10.5% and reduced theproduction cost; therefore increased the economic effect. Besides, in order to develop intosmall crab, the larvae need to undergo five stages of larvae for 16-18 days. Reducing larvaedensity and changing them into new tanks at the development stage of Zoae 3 and Megalopehave increased the survival rate of crab 1 and 2 to 14% compared to 10.5% when usedpreviuos techniques which only changed larvae into the new tanks at the stage of Zoae 5.Key words: Density, larvae, food, Scylla paramamosain; survival rateTÓM TẮT Qua quá trình nghiên cứu và thực nghiệm chúng tôi nhận thấy có một số phương phápsau đây làm tăng tỷ lệ sống của ấu trùng cua biển loài Scylla paramamosain. (1). Sử dụng kết hợp thức ăn trong giai đoạn đầu: Dùng kết hợp thức ăn rotifer vàartemia ở giai đoạn ấu trùng zoea1 làm tăng tỷ lệ sống từ 6,6% lên 10,5%, bên cạnh đó việckết hợp thức ăn như trên còn làm giảm được chi phí sản xuất, tăng hiệu quả kinh tế. (2). Thay đổi giai đoạn san thưa và chuyển bể: Sự phát triển của ấu trùng zoea cuabiển trải qua 5 giai đoạn (Zoea 1 – Zoea 5) trong vòng 15-18 ngày. Nghiên cứu này đã tiếnhành giải pháp san thưa và chuyển bể vào giai đoạn Zoea 3 và Megalope. Kết quả thu được tỷlệ sống của cua 1-2 là 14% cao hơn so với kỹ thuật trước đây là 10,5% (chỉ san thưa vàchuyển bể vào giai đoạn Zoea 5).Từ khóa: Ấu trùng, mật độ, Scylla paramamosain, thức ăn, tỷ lệ sốngMỞ ĐẦU Việt Nam là một trong những quốc gia có nguồn lợi cua biển phong phú. Các loài cuathuộc giống Scylla phân bố khắp vùng biển Ấn Độ - Thái Bình Dương. Trong đó loài S.paramamosain phân bố rất hẹp ở Việt Nam loài S. paramamosain phân bố chủ yếu ở khu vựcđồng bằng sông Cửu Long. Năm 1997 và 1998, tại khu vực cửa sông Trần Đề, huyện Long1 Tác giả chịu trách nhiệm: Nguyễn Quốc Thể, Phân Viện Nghiên Cứu Thủy Sản Minh Hải, 21-24 Phan NgọcHiển, Phường 6, Tp. Cà Mau; email: nguyen.quocthe@yahoo.com 22Phú, tỉnh Sóc Trăng đã thu được 93,4% số lượng quần thể là đối tượng này (Trương TrọngNghĩa và Trần Ngọc Hải, 2002) Trong những năm gần đây nhu cầu cua biển cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩukhông ngừng gia tăng đã thúc đẩy nghề cua phát triển. Nghề nuôi cua đã phát triển ở nhiều địaphương trong cả nước, các mô hình nuôi xen canh một vụ tôm một vụ cua, mô hình nuôi ghéptôm cua ở các đầm quảng canh, mô hình nuôi cua bán thâm canh ở những vùng nuôi tôm kémhiệu quả và gần đây mô hình nuôi cua thương phẩm trong rừng ngập mặn đã từng bước manglại hiệu quả kinh tế, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho ngư dân ở các vùng venbiển. Do vậy mấy thập niên gần đây nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế đã có mặt thi hành cácbiện pháp bảo vệ nguồn lợi một cách gắt gao, mặt khác tích cực nghiên cứu phát triển nghềnuôi cua nhân tạo và đạt được những kết quả khả quan (Hoàng Đức Đạt, 2000). Khó khăn của nghề nuôi cua hiện nay là vấn đề giải quyết con giống. Nguồn cua giốngcung cấp cho các mô hình nuôi từ trước đến nay chủ yếu được khai thác từ tự nhiên tuy nhiênnguồn giống tự nhiên biến động theo mùa vụ, kích thước không đồng đều, trộn lẫn nhiều loàivới nhau nên khó đáp ứng được yêu cầu về chất lượng cho các mô hình nuôi cua thươngphẩm. Mặt khác, do bị khai thác quá mức nên nguồn lợi cua tự nhiên đang có chiều hướngsuy giảm. từ đó có những nghiên cứu về sinh sản nhân tạo giống cua biển ( Nguyễn CơThạch, 2000) bước đầu đưa vào sản xuất, thực nghiệm thành công và đưa ra quy trình sinhsản nhân tạo cua biển loài Scylla serrata var. paramamosain( Nguyễn Cơ Thạch, 2004)Trong những năm vừa qua Phân Viện Nghiên Cứu Thủy Sản Minh Hải tiếp nhận công nghệsản xuất cua từ Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản III và đã triển khai sản xuất thànhcông. Trong quá trình sản xuất chúng tôi nhận thấy cần có những giải pháp kỹ thuật nângcao tỷ lệ sống nhằm hạ giá thành sản phẩm và tăng hiệu quả kinh tế cho nghề sản xuất cuagiống. Hiện nay, hầu hết các trại sản xuất cua giống ở Việt Nam chỉ sử dụng Artemia Vĩnhchâu ở giai đoạn bung dù và giai đoạn nauplii để cung cấp thức ăn cho các giai đoạn phát triểncủa ấu trùng cua. Do nhu cầu cao nên trứng Artemia Vĩnh châu ngày càng khan hiếm, giá cảngày càng cao nhưng chất lượng ngày càng kém. Điều này làm cho nghề sản xuất giống cuabiển phụ thuộc nhiều vào nguồn cung trứng Artemia Vĩnh Châu và đạt hiệu quả kinh tế thấp.tính ăn của ấu trùng cua biển thay đổi theo giai đoạn phát triển. Theo Hoàng Đức Đạt (2000) thì ở giai đoạn ấu trùng zoea ăn các loại tảo đơn bào,luân trùng, ấu trùng không đốt, artemia. Khi chuyển qua ấu trùng Megalop chúng ăn ấu trùngartemia, các loại thức ăn chế biến: thịt cá, nghêu xay nhuyễn, còn giai đoạn cua con chúng ăntạp, thức ăn gồm thực vật thủy sinh, động vật hai mảnh vỏ.... Trong thực tế sản xuất, nhận thấy ấu trùng cua từ giai đoạn zoea 1 đến zoea 3 có kíchthước khá đều nhau nhưng khi phát triển đến giai đoạn zoea 4, 5 thường có sự phân đàn rõ rệtnê ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu có liên quan: