Danh mục tài liệu

BÁO CÁO PHÂN LẬP, ĐỊNH SEROTYPE VIRUT VIÊM PHẾ QUẢN TRUYỀN NHIỄM TỪ GÀ THỊT

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 334.99 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Viêm phế quản truyền nhiễm (Infectious bronchitis, IB) là bệnh truyền nhiễm cấp tính, tốc độ lây lan cao và gây thiệt hại cho ngành chăn nuôi gà công nghiệp. Nghiên cứu này đã phân lập virut IB từ 100 mẫu bệnh tích khí quản sung huyết hoặc có nhiều dịch nhầy ở tại các trại gà công nghiệp tỉnh Lâm Đồng qua phương pháp tiêm xoang niệu mô. Kết quả cho thấy có 54% mẫu cho bệnh tích phôi lùn, một bệnh tích khá đặc trưng cho sự hiện diện của virut này. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BÁO CÁO " PHÂN LẬP, ĐỊNH SEROTYPE VIRUT VIÊM PHẾ QUẢN TRUYỀN NHIỄM TỪ GÀ THỊT " PHÂN LẬP, ĐỊNH SEROTYPE VIRUT VIÊM PHẾ QUẢN TRUYỀN NHIỄM TỪ GÀ THỊT Võ Thị Trà An1, Nguyễn Thị Kim Yến1 và Hồ Hoàng Dũng2 TÓM TẮT Viêm phế quản truyền nhiễm (Infectious bronchitis, IB) là bệnh truyền nhiễm cấp tính, tốc độ lây lan cao và gây thiệt hại cho ngành chăn nuôi gà công nghiệp. Nghiên cứu này đã phân lập virut IB từ 100 mẫu bệnh tích khí quản sung huyết hoặc có nhiều dịch nhầy ở tại các trại gà công nghiệp tỉnh Lâm Đồng qua phương pháp tiêm xoang niệu mô. Kết quả cho thấy có 54% mẫu cho bệnh tích phôi lùn, một bệnh tích khá đặc trưng cho sự hiện diện của virut này. 54 mẫu dịch xoang niệu mô được sử dụng để thực hiện RT-PCR, phát hiện 9 mẫu dương tính với gene S của virut IB. Giải trình tự gene cho thấy 4 mẫu trong tương đồng với serotype 793B dòng 4/91 và 1 mẫu tương đồng với serotype Mass dòng H120. Kết quả của nghiên cứu này đã xác định sự lưu hành dòng virut IB phổ biến và làm cơ sở cho các nghiên cứu dịch tễ, sự biến đổi (tiến hóa) của virut tại Việt nam. Từ khóa: Gà thịt, Viêm phế quản truyền nhiễm, Phân lập virut, Định serotyp Isolation and serotyping the IB virus from broiler Vo Thi Tra An, Nguyen Thi Kim Yen and Ho Hoang Dung SUMMARY Infectious bronchitis (IB) is an acute and highly contagious respiratory disease of chickens and causes remarkable loss in the intensive poultry production. This study has isolated IB virut from 100 congestive or mucus tracheas at broiler farms in Lam Dong province using innoculation of allantoic cavity of embryonic eggs. The results showed that lesions such as stunting (dwarfing) and curling of the embryo and its feet have been found in 54% infected embryos. These lesions are typical for the presence of this virus. 54 field isolates from allantoic fluid were used for RT-PCR and were detected 9 positive for S gene of IB virus. Nucleotide sequencing determinated that 4 isolates were 88% identity to serotype 793B strain 4/91 and 1 isolate was 98% identity to serotype Mass strain H120. Therefore, this study has indicated the presence of IB serotypes in Lam Dong and is the basis of researches on IB epidemiology and its alternation in Vietnam. Key words : Broiler, Infectious bronchitis (IB),Virus isolation, Serotyping I. GIỚI THIỆU Viêm phế quản truyền nhiễm (Infectious bronchitis, IB) là một trong những bệnh gây thiệt hại kinh tế lớn trong chăn nuôi gà công nghiệp. Đây là bệnh truyền nhiễm cấp tính, tốc độ lây lan cao, với tỷ lệ bệnh có thể lên đến 80% tổng đàn mặc dù tỷ lệ chết thấp 20% (Gelb và ctv, 1991). Trên gà thịt, bệnh không những làm giảm tăng trọng, tăng hệ số tiêu tốn thức ăn và chi phí thuốc thú y mà còn tạo điều kiện cho các bệnh khác phát triển. Trên gà đẻ sản lượng trứng cũng như chất lượng trứng sẽ giảm nếu đàn gà mắc bệnh này. Tỷ lệ đẻ giảm có thể lên tới 50% và sau đó khả năng phục hồi không hoàn toàn chỉ đạt 70 - 80% so với ban đầu (Nguyễn Thị Phước Ninh, 2008). Một đặc điểm đáng lưu ý nữa là virut gây bệnh này có nhiều serotype, biến đổi liên tục và một số serotype không tạo miễn dịch chéo với nhau (Roussan và ctv, 2008) gây khó khăn cho công tác kiểm soát bệnh. Do đó, phân lập và định danh serotype gây bệnh IB từ gà không chỉ là bước đầu tiên trong việc xác định sự lưu hành dòng virut gây bệnh mà còn làm cơ sở cho các nghiên cứu dịch tễ, sự tiến hóa của virut... để tìm ra giải pháp tốt cho chiến lược phòng và khống chế căn bệnh này. ------------------------------------------ 1 Khoa Chăn nuôi Thú y, Đại học Nông Lâm TP. HCM 2 Công ty Cargill Việt Nam 1 Chúng tôi đã tiến hành đề tài nghiên cứu “Phân lập, định serotype virut viêm phế quản truyền nhiễm từ gà thịt” của các trại chăn nuôi tỉnh Lâm Đồng. II. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Lấy mẫu bệnh phẩm từ những đàn gà có triệu chứng hô hấp Tổng cộng 100 mẫu bệnh phẩm được lấy từ khí quản của 100 trại gà thịt. Mỗi mẫu bệnh phẩm thu thập từ 5 con gà ở 1 - 45 ngày tuổi có triệu chứng bệnh hô hấp như thở khó, há miệng vươn cổ thở, âm rale khí quản, chảy nước mũi; hoặc/và có tiêu chảy phân trắng nhiều nước trong vòng 7 ngày đầu khi bắt đầu bệnh (chỉ lấy mẫu những gà bệnh không chủng ngừa vaccine IB hoặc đã chủng ngừa trước đó 21 ngày). Mẫu bệnh phẩm là một đoạn (5 - 7 cm) khí quản có nhiều dịch nhầy hoặc có bệnh tích sung huyết cho vào trong các túi nylon vô trùng, bảo quản lạnh (40C) và vận chuyển ngay về phòng thí nghiệm trong vòng 24h và dùng để phân lập virut qua phôi trứng (OIE, 2008). 2.2 Phân lập virut từ mẫu bệnh phẩm bằng cách tiêm phôi trứng theo qui trình của OIE (2008) Khí quản gà bệnh được nghiền nát, cho vào dung dịch nước muối 0,9% tạo huyễn dịch 10-20%, ly tâm 3.000 vòng trong 5 phút. Loại bỏ vi khuẩn, nấm và tạp chất bằng cách cho hỗn hợp kháng sinh penicillin 10.000 UI/ml, streptomycin 100 mg/ml vào huyễn dịch (Gelb, 1989). Sau đó lọc qua lưới lọc có đường kính 0,22 m. Lấy 0,1 - 0,2 ml nước trong nổi trên mặt của dung dịch dưới lưới lọc tiêm vào xoang niệu mô phôi gà 09 ngày tuổi. Phôi trứng gà dùng để nuôi cấy virut từ nguồn gà tự nuôi theo qui trình khép kín, cách ly với môi trường ngoài, gà không nhiễm bệnh cũng như không tiêm phòng bệnh IB và đã được test huyết thanh âm tính với IB bằng phương pháp ELISA. Mỗi mẫu bệnh phẩm tiêm vào 5 phôi trứng. Trước khi tiêm soi trứng đánh dấu vị trí đầu phôi và tiêm tại vị trí ngược lại phía đầu phôi. Kế tiếp dùng paraffin bịt lỗ tiêm, ấp trứng 370C trong 36 – 48 h để toàn bộ bào thai nước trứng có hàm lượng virut cao nhất. Phôi được kiểm tra hàng ngày, những phôi chết xảy ra trong vòng 24 h có mùi thối được xem là ...

Tài liệu có liên quan: