Báo cáo tổng kết đề tài cấp tỉnh: Nghiên cứu bảo quản và sử dụng thân lá đậu phộng để thay thế cho thức ăn hỗn hợp trong khẩu phần vỗ béo bò thịt
Số trang: 37
Loại file: pdf
Dung lượng: 0.00 B
Lượt xem: 59
Lượt tải: 0
Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mục tiêu đề tài: Xác định phương pháp bảo quản khô thân lá đậu phộng để sử dụng hiệu quả cho bò. Xác định mức độ sử dụng thích hợp thân lá đậu phộng để thay thế thức ăn hỗn hợp trong khẩu phần vỗ béo bò, nhằm nâng cao lợi nhuận cho người chăn nuôi. Mời các bạn tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo tổng kết đề tài cấp tỉnh: Nghiên cứu bảo quản và sử dụng thân lá đậu phộng để thay thế cho thức ăn hỗn hợp trong khẩu phần vỗ béo bò thịt ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH ------------***------------ BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI CẤP TỈNH NGHIÊN CỨU BẢO QUẢN VÀ SỬ DỤNG THÂN LÁ ĐẬU PHỘNG ĐỂ THAY THẾ CHO THỨC ĂN HỖN HỢP TRONG KHẨU PHẦN VỖ BÉO BÒ THỊT Trà Vinh, 12/2010 1 CHƯƠNG 1: ĐẶT VẤN ĐỀ Theo thống kê của cục thống kê Trà Vinh, cây đậu phộng được trồng với diện tích khá lớn, năm 2009 tỉnh đã xuống giống trên 4.000 ha đậu phộng. Song song với lợi nhuận thu được khá cao từ sản phẩm chính của cây đậu phộng, thì sản phẩm phụ của nó – thân lá đậu phộng – chứa đựng hàm lượng dinh dưỡng tương đối cao và có thể sử dụng để làm thức ăn cho bò. Theo Phùng Quốc Quảng (2002), thân lá đậu phộng là nguồn phụ phẩm lớn (ước tính hiện nay mỗi năm nước ta có khoảng 1,5 - 2,0 triệu tấn thân lá tươi), có giá trị nhưng hiện nay vẫn chưa được tận dụng tốt trong chăn nuôi gia súc nhai lại. Việc nghiên cứu để sử dụng thân lá đậu phộng đã được một số tác giả thực hiện như tác giả Nguyễn Bình Trường (2007) đã nghiên cứu ủ chua và sử dụng nuôi bò sữa; tác giả Phùng Quốc Quảng (2006) cũng đã nghiên cứu bảo quản thân lá đậu phộng bằng cách ủ chua. Tuy các phương pháp này tỏ ra có ý nghĩa trong việc bảo tồn dinh dưỡng của thân lá đậu phộng, nhưng việc áp dụng phương pháp này tại các nông hộ chăn nuôi nhỏ gặp nhiều khó khăn. Hiện nay một số nông hộ đã sử dụng phương pháp bảo quản thân lá đậu phộng bằng cách đơn giản là phơi khô để dùng làm thức ăn cho bò. Mặc dù với cách bảo quản khô thì dinh dưỡng của thân lá đậu phộng có thể thay đổi bởi nhiều yếu tố bên ngoài như ẩm độ, nhiệt độ, độ thông thoáng, nắng, mưa…nhưng phương pháp này tỏ ra hiệu quả khi thu hoạch đậu phộng vào mùa khô và vẫn sử dụng an toàn cho bò trong thời gian nhất định. Với số lượng trên 154.000 con vào cuối năm 2009 theo Cục thống kê Trà Vinh (2009), số lượng đàn bò của tỉnh đứng thứ hai so với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời trong cơ cấu chuyển đổi vật nuôi cây trồng của Tỉnh thì chăn nuôi bò được phát triển nhằm nâng cao tỉ trọng trong cơ cấu nông nghiệp. Vì vậy tổng đàn bò không ngừng gia tăng, trong số đó chủ yếu là bò thịt. Đồng thời việc nuôi vỗ béo ở giai đoạn trước khi bán thịt cũng được nông hộ áp dụng, sử dụng nhiều loại thức ăn vỗ béo khác nhau, trong đó có thức ăn hỗn hợp. Tuy nhiên giá thức ăn hỗn hợp vỗ béo bò hiện nay khá cao, làm giảm lợi nhuận của người nuôi bò vỗ béo. Với lượng lớn thân lá đậu phộng của Trà Vinh như hiện nay, nếu được bảo quản tốt tại các nông hộ thì đây là nguồn thức ăn rất có giá trị và sẽ làm tăng hiệu quả kinh tế cho chăn nuôi. Đặc biệt với cách nuôi vỗ béo bò như hiện nay, việc sử dụng thức ăn hỗn hợp vào khẩu phần là không thể thiếu, điều đó làm chi phí thức 2 ăn chăn nuôi tăng cao. Tuy nhiên nếu thân lá đậu phộng được sử dụng vào khẩu phần của bò thịt nói chung và giai đoạn vỗ béo nói riêng thì lợi nhuận của các nông hộ nuôi bò sẽ tăng lên. Từ các cơ sở trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu bảo quản và sử dụng thân lá đậu phộng để thay thế cho thức ăn hỗn hợp trong khẩu phần vỗ béo bò thịt”. Mục tiêu đề tài: Xác định phương pháp bảo quản khô thân lá đậu phộng để sử dụng hiệu quả cho bò. Xác định mức độ sử dụng thích hợp thân lá đậu phộng để thay thế thức ăn hỗn hợp trong khẩu phần vỗ béo bò, nhằm nâng cao lợi nhuận cho người chăn nuôi. 3 CHƯƠNG 2. LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2.1 Cây đậu phộng 2.1.1 Nguồn gốc và giá trị sử dụng cây đậu phộng Cây đậu phộng (tên khoa học Arachis hypogeae) có nguồn gốc từ Nam Mỹ, sau đó được mang đến Châu Âu, Châu Phi, Châu Á rồi Trung Mỹ và Bắc Mỹ. Ở nước ta, đậu phộng được trồng từ lúc nào thì chưa rõ, loại cây này thích hợp với khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Đậu phộng thuộc họ Leguminoseae, họ phụ Papilionaceae, giống Arachis. Loài trồng trọt có tên khoa học Arachis hypogeae, là loại cây hàng niên. Hầu hết các bộ phận cây đậu phộng đều có giá trị sử dụng: hạt là nguồn chế biến thực phẩm có giá trị kinh tế quan trọng, sản phẩm chế biến chính của hạt là ép lấy dầu. Bánh dầu đậu phộng là thành phần bổ sung chất đạm và chất béo cũng như các khoáng vi lượng trong chế biến nước chấm, là thành phần không thể thiếu đối với công nghệ chế biến thức ăn gia súc. Thân và lá sau khi thu hoạch có thể dùng làm thức ăn cho gia súc như trâu, bò, dê…(Nguyễn Bảo Vệ và ctv, 2005). Theo Đinh Văn Cải (2007), cho biết để bánh dinh dưỡng xốp hơn ta dùng một số chất đệm như vỏ đậu phộng xay nhỏ, bột bã mía, rơm xay, bột thân lá đậu phộng. Bảng 2.1. Tổng hợp thành phần dưỡng chất cây đậu phộng tươi và khô Nguồn Mẫu DM OM CP CF ME Kcal/kgDM Bùi Chính và ctv (1995) Tươi 22,5 88,1 - 25.8 - Viện Chăn Nuôi (1995) Tươi 22,5 94,0 14,1 27,7 2.289 Nguyễn Thạc Hoà và ctv (2004) Tươi 26,5 89,1 14,2 29,0 - Đinh Văn Cải và ctv (2003) Tươi 22,3 92,2 11,4 39,5 2.043 Viện Chăn Nuôi (1995) Khô 90,1 89,1 11,4 30,3 1.791 2.1.2 Tình hình trồng đậu phộng trên thế giới và trong nước Trên Thế giới: đậu phộng được trồng trên 100 quốc gia, tổng diện tích canh tác cây đậu phộng đến năm 2000 gần 24 triệu ha. Châu Á là khu vực trồng nhiều đậu phộng nhất, chiếm 65% diện tích của thế giới, trong đó nhiều nhất ở Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan… và Việt Nam. Tổng sản lượng đậu phộng trên thế giới khoảng 35 triệu tấn vào năm 2000, năng suất trung bình còn rất thấp khoảng 1 tấn/ha. Trong các nước đang phát triển ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo tổng kết đề tài cấp tỉnh: Nghiên cứu bảo quản và sử dụng thân lá đậu phộng để thay thế cho thức ăn hỗn hợp trong khẩu phần vỗ béo bò thịt ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH ------------***------------ BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI CẤP TỈNH NGHIÊN CỨU BẢO QUẢN VÀ SỬ DỤNG THÂN LÁ ĐẬU PHỘNG ĐỂ THAY THẾ CHO THỨC ĂN HỖN HỢP TRONG KHẨU PHẦN VỖ BÉO BÒ THỊT Trà Vinh, 12/2010 1 CHƯƠNG 1: ĐẶT VẤN ĐỀ Theo thống kê của cục thống kê Trà Vinh, cây đậu phộng được trồng với diện tích khá lớn, năm 2009 tỉnh đã xuống giống trên 4.000 ha đậu phộng. Song song với lợi nhuận thu được khá cao từ sản phẩm chính của cây đậu phộng, thì sản phẩm phụ của nó – thân lá đậu phộng – chứa đựng hàm lượng dinh dưỡng tương đối cao và có thể sử dụng để làm thức ăn cho bò. Theo Phùng Quốc Quảng (2002), thân lá đậu phộng là nguồn phụ phẩm lớn (ước tính hiện nay mỗi năm nước ta có khoảng 1,5 - 2,0 triệu tấn thân lá tươi), có giá trị nhưng hiện nay vẫn chưa được tận dụng tốt trong chăn nuôi gia súc nhai lại. Việc nghiên cứu để sử dụng thân lá đậu phộng đã được một số tác giả thực hiện như tác giả Nguyễn Bình Trường (2007) đã nghiên cứu ủ chua và sử dụng nuôi bò sữa; tác giả Phùng Quốc Quảng (2006) cũng đã nghiên cứu bảo quản thân lá đậu phộng bằng cách ủ chua. Tuy các phương pháp này tỏ ra có ý nghĩa trong việc bảo tồn dinh dưỡng của thân lá đậu phộng, nhưng việc áp dụng phương pháp này tại các nông hộ chăn nuôi nhỏ gặp nhiều khó khăn. Hiện nay một số nông hộ đã sử dụng phương pháp bảo quản thân lá đậu phộng bằng cách đơn giản là phơi khô để dùng làm thức ăn cho bò. Mặc dù với cách bảo quản khô thì dinh dưỡng của thân lá đậu phộng có thể thay đổi bởi nhiều yếu tố bên ngoài như ẩm độ, nhiệt độ, độ thông thoáng, nắng, mưa…nhưng phương pháp này tỏ ra hiệu quả khi thu hoạch đậu phộng vào mùa khô và vẫn sử dụng an toàn cho bò trong thời gian nhất định. Với số lượng trên 154.000 con vào cuối năm 2009 theo Cục thống kê Trà Vinh (2009), số lượng đàn bò của tỉnh đứng thứ hai so với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời trong cơ cấu chuyển đổi vật nuôi cây trồng của Tỉnh thì chăn nuôi bò được phát triển nhằm nâng cao tỉ trọng trong cơ cấu nông nghiệp. Vì vậy tổng đàn bò không ngừng gia tăng, trong số đó chủ yếu là bò thịt. Đồng thời việc nuôi vỗ béo ở giai đoạn trước khi bán thịt cũng được nông hộ áp dụng, sử dụng nhiều loại thức ăn vỗ béo khác nhau, trong đó có thức ăn hỗn hợp. Tuy nhiên giá thức ăn hỗn hợp vỗ béo bò hiện nay khá cao, làm giảm lợi nhuận của người nuôi bò vỗ béo. Với lượng lớn thân lá đậu phộng của Trà Vinh như hiện nay, nếu được bảo quản tốt tại các nông hộ thì đây là nguồn thức ăn rất có giá trị và sẽ làm tăng hiệu quả kinh tế cho chăn nuôi. Đặc biệt với cách nuôi vỗ béo bò như hiện nay, việc sử dụng thức ăn hỗn hợp vào khẩu phần là không thể thiếu, điều đó làm chi phí thức 2 ăn chăn nuôi tăng cao. Tuy nhiên nếu thân lá đậu phộng được sử dụng vào khẩu phần của bò thịt nói chung và giai đoạn vỗ béo nói riêng thì lợi nhuận của các nông hộ nuôi bò sẽ tăng lên. Từ các cơ sở trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu bảo quản và sử dụng thân lá đậu phộng để thay thế cho thức ăn hỗn hợp trong khẩu phần vỗ béo bò thịt”. Mục tiêu đề tài: Xác định phương pháp bảo quản khô thân lá đậu phộng để sử dụng hiệu quả cho bò. Xác định mức độ sử dụng thích hợp thân lá đậu phộng để thay thế thức ăn hỗn hợp trong khẩu phần vỗ béo bò, nhằm nâng cao lợi nhuận cho người chăn nuôi. 3 CHƯƠNG 2. LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2.1 Cây đậu phộng 2.1.1 Nguồn gốc và giá trị sử dụng cây đậu phộng Cây đậu phộng (tên khoa học Arachis hypogeae) có nguồn gốc từ Nam Mỹ, sau đó được mang đến Châu Âu, Châu Phi, Châu Á rồi Trung Mỹ và Bắc Mỹ. Ở nước ta, đậu phộng được trồng từ lúc nào thì chưa rõ, loại cây này thích hợp với khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Đậu phộng thuộc họ Leguminoseae, họ phụ Papilionaceae, giống Arachis. Loài trồng trọt có tên khoa học Arachis hypogeae, là loại cây hàng niên. Hầu hết các bộ phận cây đậu phộng đều có giá trị sử dụng: hạt là nguồn chế biến thực phẩm có giá trị kinh tế quan trọng, sản phẩm chế biến chính của hạt là ép lấy dầu. Bánh dầu đậu phộng là thành phần bổ sung chất đạm và chất béo cũng như các khoáng vi lượng trong chế biến nước chấm, là thành phần không thể thiếu đối với công nghệ chế biến thức ăn gia súc. Thân và lá sau khi thu hoạch có thể dùng làm thức ăn cho gia súc như trâu, bò, dê…(Nguyễn Bảo Vệ và ctv, 2005). Theo Đinh Văn Cải (2007), cho biết để bánh dinh dưỡng xốp hơn ta dùng một số chất đệm như vỏ đậu phộng xay nhỏ, bột bã mía, rơm xay, bột thân lá đậu phộng. Bảng 2.1. Tổng hợp thành phần dưỡng chất cây đậu phộng tươi và khô Nguồn Mẫu DM OM CP CF ME Kcal/kgDM Bùi Chính và ctv (1995) Tươi 22,5 88,1 - 25.8 - Viện Chăn Nuôi (1995) Tươi 22,5 94,0 14,1 27,7 2.289 Nguyễn Thạc Hoà và ctv (2004) Tươi 26,5 89,1 14,2 29,0 - Đinh Văn Cải và ctv (2003) Tươi 22,3 92,2 11,4 39,5 2.043 Viện Chăn Nuôi (1995) Khô 90,1 89,1 11,4 30,3 1.791 2.1.2 Tình hình trồng đậu phộng trên thế giới và trong nước Trên Thế giới: đậu phộng được trồng trên 100 quốc gia, tổng diện tích canh tác cây đậu phộng đến năm 2000 gần 24 triệu ha. Châu Á là khu vực trồng nhiều đậu phộng nhất, chiếm 65% diện tích của thế giới, trong đó nhiều nhất ở Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan… và Việt Nam. Tổng sản lượng đậu phộng trên thế giới khoảng 35 triệu tấn vào năm 2000, năng suất trung bình còn rất thấp khoảng 1 tấn/ha. Trong các nước đang phát triển ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Báo cáo tổng kết đề tài cấp tỉnh Bảo quản lá đậu phộng Sử dụng thân lá đậu phộng Thức ăn hỗn hợp Khẩu phần vỗ béo bò thịtTài liệu có liên quan:
-
Thông tư số 07/2019/TT-BNNPTNT
15 trang 30 0 0 -
công nghiệp sản xuất thức ăn hỗn hợp: phần 2
104 trang 27 0 0 -
công nghiệp sản xuất thức ăn hỗn hợp: phần 1
87 trang 21 0 0 -
Giáo trình Thức ăn gia súc - ĐH Nông Lâm Huế
135 trang 21 0 0 -
Giải bài Sản xuất thức ăn cho vật nuôi SGK Công nghệ 10
3 trang 19 0 0 -
34 trang 19 0 0
-
công nghiệp sản xuất thức ăn hỗn hợp: phần 1
87 trang 19 0 0 -
Thức ăn nuôi heo gia đình với 100 Công thức pha trộn
183 trang 13 0 0 -
Chế biến thức ăn gia súc và kỹ thuật chăn nuôi hộ gia đình
60 trang 12 0 0 -
11 trang 11 0 0