Danh mục tài liệu

BẤT THƯỜNG ĐƯỜNG HUYẾT Ở NGƯỜI CAO TUỔI

Số trang: 3      Loại file: pdf      Dung lượng: 269.48 KB      Lượt xem: 18      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Đối với người cao tuổi (NCT), những bất thường xảy ra ở bất kỳ một cơ quan nào cũng là những yếu tố nguy cơ ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, thậm chí là tính mạng. Tăng hay giảm đường huyết (ĐH) là một trong những bệnh lý cần đặc biệt chú ý. Bài viết sau đây sẽ giúp độc giả, nhất là NCT có những hướng xử trí cần thiết nếu rơi vào tình trạng này.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BẤT THƯỜNG ĐƯỜNG HUYẾT Ở NGƯỜI CAO TUỔI BẤT THƯỜNG ĐƯỜNG HUYẾT Ở NGƯỜI CAO TUỔI Nguồn: www.suckhoedoisong.vn Đối với người cao tuổi (NCT), những bất thường xảy ra ở bất kỳ một cơ quannào cũng là những yếu tố nguy cơ ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, thậm chí là tínhmạng. Tăng hay giảm đường huyết (ĐH) là một trong những bệnh lý cần đặc biệtchú ý. Bài viết sau đây sẽ giúp độc giả, nhất là NCT có những hướng xử trí cần thiếtnếu rơi vào tình trạng này. ĐH bình thường (đo khi cơ thể nghỉ, xa bữa ăn) là 4,4-6,6 mmol/l. Khi ĐH nằmngoài ngưỡng bình thường này được xem là tăng hay hạ. Về già, hệ thống điều hòa ĐHkém nhạy bén, do vậy dễ dẫn đến triệu chứng tăng hoặc hạ ĐH. Những biểu hiện bấtthường này có thể gây ra những hậu quả xấu cho NCT. Tiêm glucose vào tĩnh mạch bệnh nhân khi hạ ĐH nặng. Tăng ĐH xảy ra khi nào? Tình trạng tăng ĐH ở NCT (ngoại trừ người có bệnh đái tháo đường) trong hầu hếttrường hợp là tạm thời (khi vận động, khi ở trạng thái tâm lý quá phấn khích: cáu giận,hoảng sợ, bực tức, lo phiền...). Với NCT, chỉ cần nhớ rằng nếu tình trạng trên kéo dài vàxảy ra thường xuyên, có thể làm tiết nhiều adrenalin, gan cạn kiệt glucid - đe dọa chuyểnsang hạ ĐH. Thêm nữa, những trạng thái tâm lý trên còn ảnh hưởng xấu tới tim mạch,huyết áp. Hình thức tập luyện khí công và thiền tỏ ra có tác dụng tốt. Trường hợp tăng ĐH kéo dài gặp trong bệnh đái tháo đường. Ở NCT, bệnh nàykhông do thiếu insulin mà do các tế bào sử dụng kém hiệu quả chất này, do vậy nóichung những năm đầu tiên chưa cần chữa bằng insulin (như với người trẻ). Hiện đã có rấtnhiều loại thuốc chữa, dùng lâu dài, nhưng chọn loại nào thích hợp thì cần được thầythuốc hướng dẫn và bệnh nhân tự theo dõi. Phát hiện sớm bệnh đái tháo đường ở NCTkhông dễ, vì ĐH tăng thường không gây ra triệu chứng mà bệnh được phát hiện do tìnhcờ. Do vậy, ở tuổi trên 60 rất nên đo ĐH định kỳ. Không nên đo trong nước tiểu (vì cóđường trong nước tiểu là bệnh đã tiến triển một thời gian dài). Đái tháo đường ở NCTthường đi liền với các bệnh khác như: xơ vữa động mạch vành, tăng huyết áp, rối loạnlipid máu, do vậy những yếu tố này cần được kiểm soát chặt chẽ, NCT cần có một chế độăn uống và tập luyện sau khi đã đi thăm khám và có ý kiến của bác sĩ. Xử trí đúng khi bị hạ ĐH Hạ ĐH do đột ngột tăng lượng sử dụng, trong khi kho dự trữ đường ở gan khôngcòn dồi dào, hoặc không huy động kịp. Nói chung, gan NCT giảm khả năng dự trữglucid, nhất là khi xa bữa ăn (một số cụ già cần ăn nhiều bữa). Khi tiếp cận môi trường lạnh (do đột ngột ra lạnh mà không mặc đủ ấm, hoặc do ởlâu ngoài trời lạnh), người trẻ dễ thích nghi, còn NCT rất dễ hạ ĐH. Nếu NCT dùng sứcđột ngột mà thiếu sự khởi động cho cơ thể kịp thích nghi, cũng dẫn đến hạ ĐH. Ví dụ, độtngột thực hiện một loạt động tác thể dục tương đối mạnh, hoặc tập khi bụng đói... Khi có cơn nóng giận kéo dài, không tự kiềm chế được... Hạ ĐH do gan giảm dự trữ. Ở NCT, ngay sau khi ăn, tổng lượng đường ở gan vẫnthấp. Tình trạng này càng rõ nếu mắc các bệnh gan mạn tính (xơ gan, suy gan), đáng chúý là gan của người nghiện rượu... Nhiều người nghiện từ thời trẻ, dần dần có thói quenuống mà quên ăn. Một dấu hiệu nói lên tình trạng hạ ĐH ban đêm là ngủ mê mệt, tronggiấc mơ thấy mình ăn rất nhiều và ngon lành. Một nguy cơ là dự trữ protein của cơ thể cóthể cạn kiệt dần, do biến thành glucose để chống hạ ĐH. Hậu quả là suy dinh dưỡng (khóphục hồi). Hạ ĐH do sử dụng quá mức các biệnpháp chữa bệnh đái tháo đường. Có thể do người bệnh sử dụng mộtchế độ ăn quá nghèo glucid với mục đíchtích cực chữa bệnh, phòng biến chứng. Nênnhớ rằng, dù mắc bệnh đái tháo đường, bệnhnhân vẫn cần một khNu phần glucid đủ mứccần thiết, chủ yếu là loại glucid nguyên hạt.Tuy nhiên, đa số bệnh nhân đái tháo đườngbị hạ ĐH thường do sử dụng quá mức cácthuốc hạ ĐH (hy vọng kiềm chế bệnh tốthơn), mà không theo chỉ dẫn của thấy thuốcvà không tự theo dõi định kỳ mức ĐH. Tế bào não duy nhất chỉ sử dụng Tác dụng của insulin lên đườngglucose làm thức ăn, mà không sử dụng mỡ,protein như mọi tế bào khác. Do vậy, nếu huyết.ĐH hạ đột ngột xuống dưới 4mmol/l sẽ cóngay các triệu chứng thần kinh: run rNy, mắt hoa, xây xNm; nếu giảm tới 3mmol/l sẽ cóbủn rủn, choáng váng, vã mồ hôi lạnh, tim đập nhanh, mạch yếu... N ếu còn hạ tiếp sẽ cócứng hàm, lú lẫn, mất hẳn trương lực các cơ (ngã vật), hôn mê. Cùng một mức độ giảmĐH, N CT thường có bệnh cảnh nặng hơn, khó cứu chữa hơn (so với người trẻ). N ếu hạĐH từ từ, thoạt tiên thấy đói cồn cào, bộ máy tiêu hóa co bóp mạnh. Sau đó cũng là runrNy, mắt hoa, vã mồ hôi lạnh, tứ chi bủn rủn; do diễn biến kéo dài nên cơ thể trẻ đủ thờigian để kịp điều chỉnh (huy động protein); trái lại, N CT sự huy động này tỏ ra chậm chạpvà kém hiệu lực, do vậy hậu q ...