Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!... Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 202.21 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Năm 1948, cuộc kháng chiến của quân và dân ta chống thực dân Pháp bước sang năm thứ ba. Ta vừa thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc thu đông 1947. Chặng đường lịch sử phía trước của dân tộc còn đầy thử thách gian nan. Cuộc khángchiến đã chuyển sang một giai đoạn mới. Tiền tuyến và hậu phương tràn ngập tinh thần phấn chấn và quyết thắng. Thời gian này, văn nghệ kháng chiến thu được một số thành tựu xuất sắc. Một số bài thơ hay viết về anh bộ đội Cụ Hồ nối tiếp nhau...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!... Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng: Sông Mã xarồi Tây Tiến ơi!... Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Bài làm Năm 1948, cuộc kháng chiến của quân và dân ta chống thực dân Pháp bướcsang năm thứ ba. Ta vừa thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc thu đông 1947. Chặngđường lịch sử phía trước của dân tộc còn đầy thử thách gian nan. Cuộc khángchiến đãchuyển sang một giai đoạn mới. Tiền tuyến và hậu phương tràn ngập tinh thần phấnchấn và quyết thắng. Thời gian này, văn nghệ kháng chiến thu được một số thành tựu xuất sắc. Mộtsố bài thơ hay viết về anh bộ đội Cụ Hồ nối tiếp nhau xuất hiện: Lên Tây Bắc (TốHữu),Đồng chí (Chính Hữu), Nhớ (Hồng Nguyên)…và Tây Tiến của Quang Dũng. Quang Dũng viết Tây Tiến vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng vencon sông Đáy hiền hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ; nhớ đồng đội thânyêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹpmột thời trận mạc…Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻViệt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp vôcùng gian khổ mà vinh quang. Tây Tiến là tên gọi của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt - Lào,miền Tây tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình. Quang Dũng là một cán bộ đại đội của “đoànbinh không mọc tóc” ấy, đã từng vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu. Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sôngMã thân yêu: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi. Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng,đó là nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọingười thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơsâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vọng vào thời gian năm tháng, lanrộng lan xa trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ,hô ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của ngườichiến binh Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy,biết bao hoài niệm về một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng. Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nanmà đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải. Các tên bản,tên mường: Sài Khao, Mường Lát,Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu…được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thươngnhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơncùng cốc…Nó gợi trí tò mò và háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm đigiữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Đoàn binh hành quân trongsương mù giữa núi rừng trùng điệp: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi, Mường Lát hoa về trong đêm hơi. Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳng dựng thành phía trước mà các chiến sĩ TâyTiến phải vượt qua. Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn đếnvực sâu. Các từ láy: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian truâncủa nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm – Heo hútcồn mây súng ngửi trời!”. Đỉnh núi mù sương cao vút. Mũi súng của người chiến binhđược nhân hóa tạo nênmột hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảmhứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của ngườichiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nàocũng đánh thắng!”. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “Ngànthước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nốiđèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lêncao // ngàn thước xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùngvĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ. Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơđược dệt bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu, tươi mát của tâm hồnnhững người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầmnhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhàdân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũngcảm để bảo vệ và giữ gìn. Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ làmưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đạingàn hoang vu: Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người “Chiều chiều” rồi “đêm đêm” luôn có những tiếng gầm thét, những âm thanhấy khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chấthào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tôđậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lạitrong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc!Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiênnhư bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới.Quang Dũng cũng nói đến sự hi sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quânvô cùng gian khổ: Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời... Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hi sinh của người chiến sĩ là tấtyếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hi sinhnhưng không chút bi lụy, thảm thương. Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết, như lời nhắn gửi của mộtkhúc tâm tình, như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!... Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng: Sông Mã xarồi Tây Tiến ơi!... Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Bài làm Năm 1948, cuộc kháng chiến của quân và dân ta chống thực dân Pháp bướcsang năm thứ ba. Ta vừa thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc thu đông 1947. Chặngđường lịch sử phía trước của dân tộc còn đầy thử thách gian nan. Cuộc khángchiến đãchuyển sang một giai đoạn mới. Tiền tuyến và hậu phương tràn ngập tinh thần phấnchấn và quyết thắng. Thời gian này, văn nghệ kháng chiến thu được một số thành tựu xuất sắc. Mộtsố bài thơ hay viết về anh bộ đội Cụ Hồ nối tiếp nhau xuất hiện: Lên Tây Bắc (TốHữu),Đồng chí (Chính Hữu), Nhớ (Hồng Nguyên)…và Tây Tiến của Quang Dũng. Quang Dũng viết Tây Tiến vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng vencon sông Đáy hiền hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ; nhớ đồng đội thânyêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹpmột thời trận mạc…Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻViệt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp vôcùng gian khổ mà vinh quang. Tây Tiến là tên gọi của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt - Lào,miền Tây tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình. Quang Dũng là một cán bộ đại đội của “đoànbinh không mọc tóc” ấy, đã từng vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu. Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sôngMã thân yêu: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi. Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng,đó là nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọingười thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơsâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vọng vào thời gian năm tháng, lanrộng lan xa trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ,hô ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của ngườichiến binh Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy,biết bao hoài niệm về một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng. Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nanmà đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải. Các tên bản,tên mường: Sài Khao, Mường Lát,Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu…được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thươngnhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơncùng cốc…Nó gợi trí tò mò và háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm đigiữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Đoàn binh hành quân trongsương mù giữa núi rừng trùng điệp: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi, Mường Lát hoa về trong đêm hơi. Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳng dựng thành phía trước mà các chiến sĩ TâyTiến phải vượt qua. Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn đếnvực sâu. Các từ láy: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian truâncủa nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm – Heo hútcồn mây súng ngửi trời!”. Đỉnh núi mù sương cao vút. Mũi súng của người chiến binhđược nhân hóa tạo nênmột hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảmhứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của ngườichiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nàocũng đánh thắng!”. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “Ngànthước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nốiđèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lêncao // ngàn thước xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùngvĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ. Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơđược dệt bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu, tươi mát của tâm hồnnhững người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầmnhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhàdân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũngcảm để bảo vệ và giữ gìn. Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ làmưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đạingàn hoang vu: Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người “Chiều chiều” rồi “đêm đêm” luôn có những tiếng gầm thét, những âm thanhấy khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chấthào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tôđậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lạitrong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc!Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiênnhư bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới.Quang Dũng cũng nói đến sự hi sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quânvô cùng gian khổ: Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời... Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hi sinh của người chiến sĩ là tấtyếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hi sinhnhưng không chút bi lụy, thảm thương. Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết, như lời nhắn gửi của mộtkhúc tâm tình, như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
ôn thi đại học môn văn nghị luận văn 12 phân tích văn học giảng văn 12 văn mẫu lớp 12Tài liệu có liên quan:
-
Viết đoạn văn so sánh ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ bà Huyện Thanh Quan
2 trang 808 0 0 -
Văn mẫu lớp 12: Phân tích nhân vật thống lí Pá Tra trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
7 trang 360 0 0 -
Ý nghĩa phê phán sâu kín của trích đoạn phóng sự Nghệ thuật băm thịt gà
3 trang 278 5 0 -
Nghị luận xã hội chủ đề: Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ biết dành phần ai
2 trang 81 0 0 -
Phân tích và chứng minh chất thép trong tập thơ Nhật kí trong tù
3 trang 71 0 0 -
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
25 trang 68 0 0 -
Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội - Nguyễn Khải
10 trang 58 0 0 -
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hành động cởi trói của Mị trong Vợ chồng A Phủ
24 trang 57 0 0 -
Phân tích đoạn trích Ông già và biển cả của nhà văn Hê-Minh-Uê
23 trang 51 0 0 -
Phân tích tâm trạng của Chí Phèo khi bị Thị Nở từ chối chung sống
4 trang 47 0 0