Danh mục tài liệu

Bốn lý do không nên cho phép mua cổ phiếu bằng ngoại tệ

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 106.53 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tham khảo tài liệu bốn lý do không nên cho phép mua cổ phiếu bằng ngoại tệ, tài chính - ngân hàng, đầu tư chứng khoán phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bốn lý do không nên cho phép mua cổ phiếu bằng ngoại tệ Bốn lý do không nên cho phépmua cổ phiếu bằng ngoại tệLiệu có nên cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phầnbằng ngoại tệ hay không?Để có thể trả lời câu hỏi này một cách thỏa đáng, cần phải đặt nóvào bối cảnh hiện tại của nền kinh tế vĩ mô và hỏi: việc cho phépcác nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần bằng ngoại tệ sẽ đưađến những hệ quả gì đối với chính sách và sự ổn định kinh tế vĩmô của Việt Nam?Hệ quả đầu tiên, có thể nhìn thấy ngay là với giá chứng khoán đãtrở về gần hơn với giá trị thực như hiện nay, cộng thêm vớinhững đợt IPO rất lớn sắp tới, chính sách này sẽ khuyến khíchcác dòng ngoại tệ đổ thêm vào Việt Nam.Kinh nghiệm mới gần đây thôi cho thấy điều này sẽ tiếp tục gâyáp lực làm tăng giá tiền đồng so với ngoại tệ, và nếu Chính phủvẫn kiên trì chính sách ổn định tỷ giá thì Ngân hàng Nhà nước sẽtiếp tục phải mua ngoại tệ vào.Hệ quả là cung tiền sẽ tiếp tục tăng, đẩy áp lực lạm phát lên cao.Cần phải nhấn mạnh thêm rằng cung tiền trong nền kinh tế khôngchỉ là cung tiền đồng mà còn là cung ngoại tệ, và khi người nắmgiữ ngoại tệ có nhu cầu hoán đổi ra tiền đồng (hay ngược lại) thìviệc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu bằngngoại tệ chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến thị trường tiền đồng.Hệ quả thứ hai là biến động vào - ra, lên - xuống của dòng ngoạitệ đổ vào Việt Nam sẽ trở nên thất thường hơn. Thêm vào đó,nếu những giao dịch cổ phiếu bằng ngoại tệ này do các công tyvà nhà đầu tư nước ngoài tự ý thực hiện thì Nhà nước sẽ rất khókiểm soát lượng ngoại tệ vào - ra này.Việc dòng vốn vào ra trở nên thất thường và khó kiểm soát hơnkhiến hoạt động điều hành chính sách tiền tệ và tỷ giá của Ngânhàng Nhà nước vốn đã khó khăn trở nên càng khó khăn hơn.Hệ quả thứ ba là chính sách này sẽ làm tăng mức độ đô la hóacủa nền kinh tế. Mặc dù trong những năm qua Ngân hàng Nhànước đã áp dụng nhiều biện pháp để hạn chế tình trạng đô la hóasong tỷ lệ đô la hóa trong hệ thống ngân hàng của Việt Nam hiệnvẫn ở mức rất cao, vào khoảng 20% (theo số liệu của IMF).Bình thường, ngay cả khi chưa bị đô la hóa thì với chính sách tỷgiá (gần như) cố định như hiện nay thì Ngân hàng Nhà nước đãbị mất sự tự chủ và chỉ có thể phản ứng một cách thụ động trướcsự lên xuống của dòng vốn nước ngoài (hiện tượng này đượcmiêu tả bằng thuật ngữ “bộ ba bất khả thi”).Bằng chứng là trong thời gian qua chính sách lãi suất của Ngânhàng Nhà nước hoàn toàn không có hiệu lực, đồng thời thay vìnhững biện pháp điều tiết gián tiếp thì Ngân hàng Nhà nước buộcphải sử dụng những biện pháp hành chính mệnh lệnh. Điều nàycũng có nghĩa là nếu tình trạng đô la hóa trở nên xấu đi, đồngthời dòng vốn vào ra trở nên thất thường và khó kiểm soát hơnthì mức độ tự chủ và khả năng kiểm soát chính sách tiền tệ củaNgân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục bị xói mòn.Hệ quả thứ tư là khi khả năng kiểm soát chính sách tiền tệ củaNgân hàng Nhà nước bị suy giảm thì để thực hiện một số nhiệmvụ điều tiết vĩ mô (như kích thích hay tiết chế cầu chẳng hạn),Việt Nam chỉ có thể sử dụng chính sách ngân sách. Bản thân việcthực thi chính sách ngân sách cũng lại có một số hạn chế nhấtđịnh. Chẳng hạn như nó chịu áp lực chính trị và tác động của cácnhóm đặc quyền đặc lợi.Bên cạnh đó, chính sách ngân sách thường có độ trễ dài hơn sovới chính sách tiền tệ. Ví dụ như tác dụng của việc giảm thuế thunhập doanh nghiệp hay thuế thu nhập cá nhân chỉ thể hiện rõ sauít nhất là một năm, trong khi tác động của chính sách tiền tệ nhưtăng giảm cung tiền có thể được cảm nhận gần như ngay lập tức.Nói tóm lại, chính sách cho phép các nhà đầu tư nước ngoài muacổ phần bằng ngoại tệ có thể giúp thị trường chứng khoán tạmthời thoát khỏi cơn “tụt dốc” nhưng với cái giá là nền kinh tế vĩ môsẽ trở nên bất ổn hơn, khả năng kiểm soát chính sách tiền tệ củaNgân hàng Nhà nước bị xói mòn, công cụ điều tiết vĩ mô củaChính phủ bị hạn chế, và sức ép lạm phát tiếp tục gia tăng.Để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, mục tiêu làmchủ chính sách và bình ổn kinh tế vĩ mô phải được đặt lên hàngđầu, và dứt khoát không nên đánh đổi những mục tiêu ngắn hạnkhông cơ bản với những mục tiêu dài hạn cơ bản.Vì những lý do này, không nên cho phép nhà đầu tư nước ngoàimua cổ phần bằng ngoại tệ. ...