Các chất cận sinh: Lợi ích hay nguy hiểm?
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 158.13 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Khái niệm chất cận sinh (probiotics) được bắt đầu từ thế kỷ 20 với nhận xét của nhà bác học người Nga Elie Metchnikoff (đoạt giải thưởng Nobel) về một số bộ lạc du mục người Bungari ăn nhiều chế phẩm lên men, đặc biệt là uống sữa lên men (yaourt) sẽ trường thọ. Khái niệm chất cận sinh (probiotics) được bắt đầu từ thế kỷ 20 với nhận xét của nhà bác học người Nga Elie Metchnikoff (đoạt giải thưởng Nobel) về một số bộ lạc du mục người Bungari ăn nhiều chế phẩm lên men, đặc biệt...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các chất cận sinh: Lợi ích hay nguy hiểm? Các chất cận sinh: Lợi ích hay nguy hiểm? Khái niệm chất cận sinh (probiotics) được bắt đầu từ thế kỷ 20với nhận xét của nhà bác học người Nga Elie Metchnikoff (đoạt giảithưởng Nobel) về một số bộ lạc du mục người Bungari ăn nhiều chếphẩm lên men, đặc biệt là uống sữa lên men (yaourt) sẽ trường thọ. Khái niệm chất cận sinh (probiotics) được bắt đầu từ thế kỷ 20 vớinhận xét của nhà bác học người Nga Elie Metchnikoff (đoạt giải thưởngNobel) về một số bộ lạc du mục người Bungari ăn nhiều chế phẩm lên men,đặc biệt là uống sữa lên men (yaourt) sẽ trường thọ. “Ông tổ” của chất cận sinh ngày nay là sữa chua kinh điển, tức là sữa“lên men” với streptococcus thermophilus và lactobacillus bulgaricus. Năm1974, lần đầu tiên người ta đã dùng thuật ngữ “chất cận s inh” và chúng cótrong thức ăn cho động vật. Ngày nay, chất cận sinh được dùng cho ngườidưới dạng thức ăn hoặc thuốc, ở nước ta quen gọi là “men tiêu hóa”. Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) (2002), chất cậnsinh là “các vi sinh vật sống (còn gọi là vi khuẩn hoặc men), nếu đưa vào cơthể với lượng đầy đủ và có hàm lượng ổn định, sẽ cải thiện được sự cân bằngcủa tạp khuẩn ruột và có lợi ích cho sức khỏe người dùng”. Mặc dù nằm sâu bên trong cơ thể, nhưng ruột lại được tiếp xúcthường xuyên với ngoại môi do thức ăn và nước bọt mang vào. Ngoài nhiệmvụ hấp thu và đồng hóa thức ăn trực tiếp và tiết kiệm “dành dụm” (>90% cácchất tiêu hóa của cơ thể sẽ được tái hấp thu), thì ruột được coi là lối vào đầutiên của vi sinh vật, nên còn có vai trò làm hàng rào bảo vệ chống lại cácchất độc, chống các chất gây bệnh. Ruột đã bố trí sẵn một tổ chức phức tạpvà hữu hiệu với một hệ tạp khuẩn hội sinh phong phú. Niêm mạc ruột gồm một hệ nếp gấp liên tiếp, giúp ruột có chiều dài7m và diện tích ngang diện tích của 3 sân quần vợt, được bao phủ bởi chấtnhày: đó là chướng ngại vật chống sự xâm lấn của mầm bệnh và chống chấtđộc. Tại chất nhày, có một lượng đáng kể các IgA (IgA tiết), đó chính làhàng rào đầu tiên bảo vệ niêm mạc chống các mầm bệnh. Hệ miễn dịch trong ruột là cấu trúc rất quan trọng cho cơ thể, đại diện70%-85% các tế bào miễn dịch của toàn cơ thể. Sau khi có kích thích miễndịch, các lymphô bào B và T ở ruột sẽ tràn vào tuần hoàn chung và vào cácniêm mạc khác. Khi quay trở về ống tiêu hóa, chúng đã chín muồi, có trí nhớkháng nguyên đồng thời tiết các cytokin và IgA. IgA làm hàng rào cản trởkhông cho dính vào thành ruột, không cho vi khuẩn thấm vào khoang hệthống, đồng thời trung hòa được độc tố vi khuẩn. IgA cũng làm chậm sựnhân lên của virut trong tế bào ruột và chống chọi được với các protein củavi khuẩn. Tạp khuẩn ở ruột Tạp khuẩn này cộng sinh với vật chủ và lấy từ thức ăn. Tạp khuẩn rấtcần cho sự tiêu hóa một số thức ăn đồng hóa và cũng tác động chống lại sựgắn của các vi khuẩn khác vào thành ruột. Sự đấu tranh giữa cơ thể với tạp khuẩn sẽ kéo dài liên tục. Hầu hết cácmầm bệnh mang vào theo thức ăn và nước bọt bị hủy bởi sự tiết acid của dạdày. Những vi khuẩn và men nào đề kháng được sẽ được nhân lên trong quátrình chuyển vận tới tận ruột già mà tại đây, tạp khuẩn sẽ là những vi khuẩncó ích bậc nhất. Tạp khuẩn ruột và sự bảo vệ của cơ thể Tạp khuẩn ruột kích thích sự bảo vệ miễn dịch tại chỗ và toàn thân:làm tăng số lượng những tế bào có thẩm quyền miễn dịch, kích thích thựcbào, tăng sản xuất các globulin miễn dịch. Ngoài ra, tạp khuẩn còn có chứcnăng quan trọng khác là ức chế vi khuẩn gây bệnh. Vi khuẩn trong tạp khuẩncó thể sản sinh ra các chất ức chế được sự sinh trưởng của vi khuẩn có hại.Nổi bật nhất là vi khuẩn của tạp khuẩn ruột sẽ dính chặt vào các thụ thể ở tếbào ruột hoặc vào chất nhày, kết quả có ích là các mầm gây bệnh sẽ khó gắnhơn vào niêm mạc ruột để “gây gổ”. Tạp khuẩn ruột còn ức chế được sự sảnxuất các độc tố của vi khuẩn, nên làm giảm độc lực của chúng. Rối loạn tạp khuẩn ruột sẽ làm giảm điều hòa hệ miễn dịch ở ruột, gâycác phản ứng quá mẫn cảm với thức ăn, viêm niêm mạc ruột và trở nên dễthấm kháng nguyên. Chất cận sinh có nguy hiểm cho người không? Các chất cận sinh thường dùng từ lâu đã được dùng trong thực phẩmnhư là men mà không có tác hại cho sức khỏe. Lợi ích của chất cận sinh ở người Đến nay, tạm sơ kết chất cận sinh có lợi ích trong những trường hợpsau đây: Tiêu chảy do dùng kháng sinh Kháng sinh làm thay đổi tạm thời các tạp khuẩn, nên sẽ kéo theo tiêuchảy do chuyển hóa thường ở mức trung bình và ngắn hạn. Một số mầm củatạp khuẩn chưa trội (pseudomonas, klebsiella, salmonella, E.coli, candida,clostridium difficile) nhân cơ hội người bệnh phải dùng thuốc kháng sinh sẽcó thể tăng sinh và trở nên gây bệnh. Trong phần lớn các trường hợp, nếu dùng phối hợp chất cận sinh vớikháng sinh liệu pháp, nếu chưa thể ngăn ngừa được triệt để, thì ít nhất cũnglàm giảm tần số và/hoặc thời hạn các đợt tiêu chảy. Tiêu chảy do nhiễm khuẩn Chất cận sinh sẽ bảo vệ được hoặc làm giảm thời hạn các đợt tiêuchảy, vì các mầm gây bệnh sẽ khó khăn hơn để gắn vào các vị trí ở niêmmạc ruột. Với tiêu chảy do rotavirus ở trẻ em, chất cận sinh làm giảm trungbình 54% thời gian tiêu chảy. Cần lưu ý là chỉ cần làm giảm thời hạn củaviêm dạ dày - ruột trong vòng một ngày hoặc 1,5 ngày ở trẻ em đã là rấtquan trọng. Các chất cận sinh có thể kích thích được sự đáp ứng kháng thểIgA ở ruột chống rotavirus. Tiêu chảy ở người đi du lịch Người đi du lịch đến nơi mới, sẽ gặp phải các quần thể vi khuẩn cóhại mà cơ thể chưa kịp làm quen. Khi đó, tạp khuẩn sẽ có hiệu lực chắcchắn. Táo bón Chất cận sinh, hoặc dùng đơn độc, hoặc hỗ trợ cho thuốc nhuận tràngsẽ làm giảm táo bón ở 2/3 trường hợp, nhất là ở người cao tuổi. Bệnh viêm ruột ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các chất cận sinh: Lợi ích hay nguy hiểm? Các chất cận sinh: Lợi ích hay nguy hiểm? Khái niệm chất cận sinh (probiotics) được bắt đầu từ thế kỷ 20với nhận xét của nhà bác học người Nga Elie Metchnikoff (đoạt giảithưởng Nobel) về một số bộ lạc du mục người Bungari ăn nhiều chếphẩm lên men, đặc biệt là uống sữa lên men (yaourt) sẽ trường thọ. Khái niệm chất cận sinh (probiotics) được bắt đầu từ thế kỷ 20 vớinhận xét của nhà bác học người Nga Elie Metchnikoff (đoạt giải thưởngNobel) về một số bộ lạc du mục người Bungari ăn nhiều chế phẩm lên men,đặc biệt là uống sữa lên men (yaourt) sẽ trường thọ. “Ông tổ” của chất cận sinh ngày nay là sữa chua kinh điển, tức là sữa“lên men” với streptococcus thermophilus và lactobacillus bulgaricus. Năm1974, lần đầu tiên người ta đã dùng thuật ngữ “chất cận s inh” và chúng cótrong thức ăn cho động vật. Ngày nay, chất cận sinh được dùng cho ngườidưới dạng thức ăn hoặc thuốc, ở nước ta quen gọi là “men tiêu hóa”. Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) (2002), chất cậnsinh là “các vi sinh vật sống (còn gọi là vi khuẩn hoặc men), nếu đưa vào cơthể với lượng đầy đủ và có hàm lượng ổn định, sẽ cải thiện được sự cân bằngcủa tạp khuẩn ruột và có lợi ích cho sức khỏe người dùng”. Mặc dù nằm sâu bên trong cơ thể, nhưng ruột lại được tiếp xúcthường xuyên với ngoại môi do thức ăn và nước bọt mang vào. Ngoài nhiệmvụ hấp thu và đồng hóa thức ăn trực tiếp và tiết kiệm “dành dụm” (>90% cácchất tiêu hóa của cơ thể sẽ được tái hấp thu), thì ruột được coi là lối vào đầutiên của vi sinh vật, nên còn có vai trò làm hàng rào bảo vệ chống lại cácchất độc, chống các chất gây bệnh. Ruột đã bố trí sẵn một tổ chức phức tạpvà hữu hiệu với một hệ tạp khuẩn hội sinh phong phú. Niêm mạc ruột gồm một hệ nếp gấp liên tiếp, giúp ruột có chiều dài7m và diện tích ngang diện tích của 3 sân quần vợt, được bao phủ bởi chấtnhày: đó là chướng ngại vật chống sự xâm lấn của mầm bệnh và chống chấtđộc. Tại chất nhày, có một lượng đáng kể các IgA (IgA tiết), đó chính làhàng rào đầu tiên bảo vệ niêm mạc chống các mầm bệnh. Hệ miễn dịch trong ruột là cấu trúc rất quan trọng cho cơ thể, đại diện70%-85% các tế bào miễn dịch của toàn cơ thể. Sau khi có kích thích miễndịch, các lymphô bào B và T ở ruột sẽ tràn vào tuần hoàn chung và vào cácniêm mạc khác. Khi quay trở về ống tiêu hóa, chúng đã chín muồi, có trí nhớkháng nguyên đồng thời tiết các cytokin và IgA. IgA làm hàng rào cản trởkhông cho dính vào thành ruột, không cho vi khuẩn thấm vào khoang hệthống, đồng thời trung hòa được độc tố vi khuẩn. IgA cũng làm chậm sựnhân lên của virut trong tế bào ruột và chống chọi được với các protein củavi khuẩn. Tạp khuẩn ở ruột Tạp khuẩn này cộng sinh với vật chủ và lấy từ thức ăn. Tạp khuẩn rấtcần cho sự tiêu hóa một số thức ăn đồng hóa và cũng tác động chống lại sựgắn của các vi khuẩn khác vào thành ruột. Sự đấu tranh giữa cơ thể với tạp khuẩn sẽ kéo dài liên tục. Hầu hết cácmầm bệnh mang vào theo thức ăn và nước bọt bị hủy bởi sự tiết acid của dạdày. Những vi khuẩn và men nào đề kháng được sẽ được nhân lên trong quátrình chuyển vận tới tận ruột già mà tại đây, tạp khuẩn sẽ là những vi khuẩncó ích bậc nhất. Tạp khuẩn ruột và sự bảo vệ của cơ thể Tạp khuẩn ruột kích thích sự bảo vệ miễn dịch tại chỗ và toàn thân:làm tăng số lượng những tế bào có thẩm quyền miễn dịch, kích thích thựcbào, tăng sản xuất các globulin miễn dịch. Ngoài ra, tạp khuẩn còn có chứcnăng quan trọng khác là ức chế vi khuẩn gây bệnh. Vi khuẩn trong tạp khuẩncó thể sản sinh ra các chất ức chế được sự sinh trưởng của vi khuẩn có hại.Nổi bật nhất là vi khuẩn của tạp khuẩn ruột sẽ dính chặt vào các thụ thể ở tếbào ruột hoặc vào chất nhày, kết quả có ích là các mầm gây bệnh sẽ khó gắnhơn vào niêm mạc ruột để “gây gổ”. Tạp khuẩn ruột còn ức chế được sự sảnxuất các độc tố của vi khuẩn, nên làm giảm độc lực của chúng. Rối loạn tạp khuẩn ruột sẽ làm giảm điều hòa hệ miễn dịch ở ruột, gâycác phản ứng quá mẫn cảm với thức ăn, viêm niêm mạc ruột và trở nên dễthấm kháng nguyên. Chất cận sinh có nguy hiểm cho người không? Các chất cận sinh thường dùng từ lâu đã được dùng trong thực phẩmnhư là men mà không có tác hại cho sức khỏe. Lợi ích của chất cận sinh ở người Đến nay, tạm sơ kết chất cận sinh có lợi ích trong những trường hợpsau đây: Tiêu chảy do dùng kháng sinh Kháng sinh làm thay đổi tạm thời các tạp khuẩn, nên sẽ kéo theo tiêuchảy do chuyển hóa thường ở mức trung bình và ngắn hạn. Một số mầm củatạp khuẩn chưa trội (pseudomonas, klebsiella, salmonella, E.coli, candida,clostridium difficile) nhân cơ hội người bệnh phải dùng thuốc kháng sinh sẽcó thể tăng sinh và trở nên gây bệnh. Trong phần lớn các trường hợp, nếu dùng phối hợp chất cận sinh vớikháng sinh liệu pháp, nếu chưa thể ngăn ngừa được triệt để, thì ít nhất cũnglàm giảm tần số và/hoặc thời hạn các đợt tiêu chảy. Tiêu chảy do nhiễm khuẩn Chất cận sinh sẽ bảo vệ được hoặc làm giảm thời hạn các đợt tiêuchảy, vì các mầm gây bệnh sẽ khó khăn hơn để gắn vào các vị trí ở niêmmạc ruột. Với tiêu chảy do rotavirus ở trẻ em, chất cận sinh làm giảm trungbình 54% thời gian tiêu chảy. Cần lưu ý là chỉ cần làm giảm thời hạn củaviêm dạ dày - ruột trong vòng một ngày hoặc 1,5 ngày ở trẻ em đã là rấtquan trọng. Các chất cận sinh có thể kích thích được sự đáp ứng kháng thểIgA ở ruột chống rotavirus. Tiêu chảy ở người đi du lịch Người đi du lịch đến nơi mới, sẽ gặp phải các quần thể vi khuẩn cóhại mà cơ thể chưa kịp làm quen. Khi đó, tạp khuẩn sẽ có hiệu lực chắcchắn. Táo bón Chất cận sinh, hoặc dùng đơn độc, hoặc hỗ trợ cho thuốc nhuận tràngsẽ làm giảm táo bón ở 2/3 trường hợp, nhất là ở người cao tuổi. Bệnh viêm ruột ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
kiến thức y học sử dụng thuốc tài liệu về thuốc dược học tài liệu dượcTài liệu có liên quan:
-
Một số dấu hiệu bất thường khi dùng thuốc
5 trang 189 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 187 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 133 0 0 -
4 trang 122 0 0
-
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 118 0 0 -
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 85 0 0 -
XÂY DỰNG VHI (VOICE HANDICAP INDEX) PHIÊN BẢN TIẾNG VIỆT
25 trang 63 0 0 -
Kiến thức y học - Sức khỏe quý hơn vàng: Phần 1
177 trang 55 0 0 -
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, KỸ NĂNG SỬ DỤNG ORESOL
22 trang 54 0 0 -
Những bí quyết chữa bệnh từ đậu phụ
5 trang 53 0 0