Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 608.77 KB
Lượt xem: 20
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết đề xuất một số gợi ý chính sách cho Ngân hàng nhà nước Việt Nam nhằm hạn chế hành vi quản trị lợi nhuận của các Ngân hàng thương mại Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng thông tin kế toán.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Trần Quốc Thịnh Trần Ngọc Anh Thư Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh Hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) là việc sử dụng các thủ thuật thông qua các chính sách kế toán nhằm chi phối có chủ đích trong việc cung cấp thông tin đến người sử dụng, trong đó các nhân tố liên quan đến chỉ số tài chính có ảnh hưởng đáng kể đến hành vi QTLN. Bài viết sử dụng phương pháp kiểm định với 150 mẫu của 30 ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong thời gian 5 năm từ 2015- 2019. Kết quả hồi quy OLS cho thấy 4 biến có ý nghĩa, trong đó 2 biến tác động cùng chiều đến hành vi QTLN là đòn bẩy tài chính và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, và 2 biến có tác động ngược chiều là quy mô ngân hàng và tỷ suất sinh lời. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số gợi ý chính sách cho Ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNN) nhằm hạn chế hành vi QTLN của các NHTM Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng thông tin kế toán. Từ khóa: chỉ số tài chính, hành vi quản trị lợi nhuận, ngân hàng thương mại Influence of factors on profit management behavior at Vietnam joint stock commercial banks Abstract: Profit management behavior (PMB) is the use of procedures through accounting policies to intentionally govern the provision of information to users, including factors related to financials indicators that have a significant influence on the behavior of PMB. The paper uses a test method with 150 samples of 30 joint stock commercial banks in Vietnam for 5 years from 2015 to 2019. The OLS regression results show that there are 4 significant variables, of which 2 variables with positive effects on the risk management behaviors, namely financial leverage and provision for credit losses, and 2 variables with opposite effects are bank size and profitability ratio. Based on that, the article proposes a number of policy suggestions to the State Bank to limit the PMB of Vietnamese commercial banks to contribute to improving the quality of accounting information. Keywords: financials indicators, profit management behavior, commercial banks Thinh Quoc Tran Email: thinhtq@buh.edu.vn Thu Ngoc Anh Tran Email: tqthinhkt@gmail.com Organization of all: Banking University of Ho Chi Minh City Ngày nhận: 19/04/2020 Ngày nhận bản sửa: 00/00/2019 Ngày duyệt đăng: 15/00/2019 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng © Học viện Ngân hàng Số 217- Tháng 6. 2020 12 ISSN 1859 - 011X TRẦN QUỐC THỊNH - TRẦN NGỌC ANH THƯ 1. Đặt vấn đề các biến thuộc cơ cấu sở hữu (tỷ lệ sở hữu của tổ chức trong nước, sở hữu của Nhu cầu sử dụng các thông tin kế toán nhà quản lý, sở hữu của nhà nước và mức được thể hiện thông qua các thông tin độ tập trung quyền sở hữu). Có thể thấy, trên báo cáo tài chính (BCTC) của các NHTM có vai trò quan trọng huyết mạch đối tượng sử dụng thông tin ngày càng trong nền kinh tế quốc gia. Việc nâng cao gia tăng. Các thông tin được công bố trên chất lượng thông tin liên quan đến CSTC BCTC là cơ sở hỗ trợ cho các đối tượng sử trên BCTC là yếu tố quan trọng để đảm dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh bảo sự tin cậy cho người sử dụng, cũng tế hợp lý. Trong nhiều chỉ tiêu tài chính, như sự phát triển bền vững của hệ thống lợi nhuận là chỉ tiêu được các nhà đầu tư ngân hàng và thị trường tài chính. quan tâm nhiều nhất và cũng là chỉ tiêu mà các nhà quản lý (NQL) có xu hướng thao 2. Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa túng hay tác động vào nhiều nhất. Khi thông tin về chỉ số tài chính và quản trị chịu sự thao túng của NQL, các thông tin lợi nhuận tài chính nói chung và thông tin về chỉ tiêu lợi nhuận nói riêng của các doanh nghiệp 2.1. Các khái niệm liên quan trở nên không đáng tin cậy. Sự thao túng này còn được gọi là hành vi Quản trị lợi Hành vi quản trị lợi nhuận nhuận (QTLN). QTLN (Earnings Management) là “một Trên thế giới, việc xem xét sự ảnh hưởng mảng tối” mà ở đó kết quả của công việc của các nhân tố đến hành vi QTLN đã và kế toán đã bị nhà quản lý “cắt gọt” ở một đang nhận được rất nhiều sự quan tâm số khía cạnh (Levitt, 1998). Tuy vậy, nếu của các nhà nghiên cứu, tuy đa phần các phương pháp kế toán được áp dụng nằm nghiên cứu là các doanh nghiệp phi tài trong khuôn khổ của chuẩn mực kế toán, chính. Nhìn chung, tại các doanh nghiệp thì hành vi QTLN là tuân thủ khuôn khổ nói chung và các NHTM các nói riêng, pháp lý, là sự vận dụng khéo léo, linh hoạt đối với nghiên cứu về mối quan hệ giữa và phù hợp chuẩn mực kế toán để trình bày hành vi QTLN và các chỉ số tài chính BCTC theo cách thuận lợi nhất cho công ty (CSTC) tiêu biểu như tỷ suất sinh lời, đòn hay cho chính NQL chứ không phải là hành bẩy tài chính, quy mô doanh nghiệp, tính động phi pháp (Rahman và các cộng sự, thanh khoản được cho là có mối quan hệ 2013). Healy và Wahlen (1999) cho rằng, với hành vi QTLN (Shen, 2016; Gombola đây là hành vi điều chỉnh kết quả hoạt động và các cộng sự, 2016; Moghaddam và của doa ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Trần Quốc Thịnh Trần Ngọc Anh Thư Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh Hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) là việc sử dụng các thủ thuật thông qua các chính sách kế toán nhằm chi phối có chủ đích trong việc cung cấp thông tin đến người sử dụng, trong đó các nhân tố liên quan đến chỉ số tài chính có ảnh hưởng đáng kể đến hành vi QTLN. Bài viết sử dụng phương pháp kiểm định với 150 mẫu của 30 ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong thời gian 5 năm từ 2015- 2019. Kết quả hồi quy OLS cho thấy 4 biến có ý nghĩa, trong đó 2 biến tác động cùng chiều đến hành vi QTLN là đòn bẩy tài chính và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, và 2 biến có tác động ngược chiều là quy mô ngân hàng và tỷ suất sinh lời. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số gợi ý chính sách cho Ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNN) nhằm hạn chế hành vi QTLN của các NHTM Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng thông tin kế toán. Từ khóa: chỉ số tài chính, hành vi quản trị lợi nhuận, ngân hàng thương mại Influence of factors on profit management behavior at Vietnam joint stock commercial banks Abstract: Profit management behavior (PMB) is the use of procedures through accounting policies to intentionally govern the provision of information to users, including factors related to financials indicators that have a significant influence on the behavior of PMB. The paper uses a test method with 150 samples of 30 joint stock commercial banks in Vietnam for 5 years from 2015 to 2019. The OLS regression results show that there are 4 significant variables, of which 2 variables with positive effects on the risk management behaviors, namely financial leverage and provision for credit losses, and 2 variables with opposite effects are bank size and profitability ratio. Based on that, the article proposes a number of policy suggestions to the State Bank to limit the PMB of Vietnamese commercial banks to contribute to improving the quality of accounting information. Keywords: financials indicators, profit management behavior, commercial banks Thinh Quoc Tran Email: thinhtq@buh.edu.vn Thu Ngoc Anh Tran Email: tqthinhkt@gmail.com Organization of all: Banking University of Ho Chi Minh City Ngày nhận: 19/04/2020 Ngày nhận bản sửa: 00/00/2019 Ngày duyệt đăng: 15/00/2019 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng © Học viện Ngân hàng Số 217- Tháng 6. 2020 12 ISSN 1859 - 011X TRẦN QUỐC THỊNH - TRẦN NGỌC ANH THƯ 1. Đặt vấn đề các biến thuộc cơ cấu sở hữu (tỷ lệ sở hữu của tổ chức trong nước, sở hữu của Nhu cầu sử dụng các thông tin kế toán nhà quản lý, sở hữu của nhà nước và mức được thể hiện thông qua các thông tin độ tập trung quyền sở hữu). Có thể thấy, trên báo cáo tài chính (BCTC) của các NHTM có vai trò quan trọng huyết mạch đối tượng sử dụng thông tin ngày càng trong nền kinh tế quốc gia. Việc nâng cao gia tăng. Các thông tin được công bố trên chất lượng thông tin liên quan đến CSTC BCTC là cơ sở hỗ trợ cho các đối tượng sử trên BCTC là yếu tố quan trọng để đảm dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh bảo sự tin cậy cho người sử dụng, cũng tế hợp lý. Trong nhiều chỉ tiêu tài chính, như sự phát triển bền vững của hệ thống lợi nhuận là chỉ tiêu được các nhà đầu tư ngân hàng và thị trường tài chính. quan tâm nhiều nhất và cũng là chỉ tiêu mà các nhà quản lý (NQL) có xu hướng thao 2. Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa túng hay tác động vào nhiều nhất. Khi thông tin về chỉ số tài chính và quản trị chịu sự thao túng của NQL, các thông tin lợi nhuận tài chính nói chung và thông tin về chỉ tiêu lợi nhuận nói riêng của các doanh nghiệp 2.1. Các khái niệm liên quan trở nên không đáng tin cậy. Sự thao túng này còn được gọi là hành vi Quản trị lợi Hành vi quản trị lợi nhuận nhuận (QTLN). QTLN (Earnings Management) là “một Trên thế giới, việc xem xét sự ảnh hưởng mảng tối” mà ở đó kết quả của công việc của các nhân tố đến hành vi QTLN đã và kế toán đã bị nhà quản lý “cắt gọt” ở một đang nhận được rất nhiều sự quan tâm số khía cạnh (Levitt, 1998). Tuy vậy, nếu của các nhà nghiên cứu, tuy đa phần các phương pháp kế toán được áp dụng nằm nghiên cứu là các doanh nghiệp phi tài trong khuôn khổ của chuẩn mực kế toán, chính. Nhìn chung, tại các doanh nghiệp thì hành vi QTLN là tuân thủ khuôn khổ nói chung và các NHTM các nói riêng, pháp lý, là sự vận dụng khéo léo, linh hoạt đối với nghiên cứu về mối quan hệ giữa và phù hợp chuẩn mực kế toán để trình bày hành vi QTLN và các chỉ số tài chính BCTC theo cách thuận lợi nhất cho công ty (CSTC) tiêu biểu như tỷ suất sinh lời, đòn hay cho chính NQL chứ không phải là hành bẩy tài chính, quy mô doanh nghiệp, tính động phi pháp (Rahman và các cộng sự, thanh khoản được cho là có mối quan hệ 2013). Healy và Wahlen (1999) cho rằng, với hành vi QTLN (Shen, 2016; Gombola đây là hành vi điều chỉnh kết quả hoạt động và các cộng sự, 2016; Moghaddam và của doa ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Hành vi quản trị lợi nhuận Quản trị lợi nhuận Ngân hàng thương mại cổ phần Quản trị lợi nhuận tại các ngân hàng Chất lượng thông tin kế toánTài liệu có liên quan:
-
Báo cáo thực tập nhận thức: Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Chi nhánh Bắc An Giang
31 trang 172 0 0 -
Sử dụng hàm Loga siêu việt để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam
11 trang 115 0 0 -
Tiểu luận: Phân tích báo cáo tài chính NH TMCP Techcombank giai đoạn 2008 - 2012
34 trang 101 0 0 -
Tiểu luận: Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng ACB giai đoạn 2008 – 2012
29 trang 87 0 0 -
22 trang 60 1 0
-
Nghiên cứu tổng quan về hệ thống báo cáo kế toán trong doanh nghiệp
10 trang 43 0 0 -
Nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng về dịch vụ tiền gửi tiết kiệm tại Ngân hàng TMCP VPBank
7 trang 41 1 0 -
Tìm hiểu về tín dụng xanh - Từ lý thuyết đến thực tiễn ở Việt Nam (Sách tham khảo): Phần 2
68 trang 41 0 0 -
Tác động của trách nhiệm môi trường đến quản trị lợi nhuận tại các quốc gia thuộc khối BRICS
13 trang 36 0 0 -
Báo cáo thực tập nhận thức: Ngân Hàng TMCP Sài Gòn Thường Tín
42 trang 34 0 0