
Cảm hứng nguyên thủy trong mỹ thuật hiện đại
Số trang: 12
Loại file: pdf
Dung lượng: 227.97 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghệ thuật hiện đại có thể rút ở nghệ thuật nguyên thuỷ một bài học tạo hình, nhất là ở điêu khắc Châu Phi. Đó là sự tươi mát tự nhiên của xúc cảm, sự đơn giản trong sạch nào đấy của bản năng ngôn ngữ hình thể, tính vô tư của kỹ thuật, một chừng mực vẻ đẹp tinh thần, độc lập, chứ không phải là tự tiện đón lấy ở nó cái ý nghĩa dở dang, vô lý, không hoàn thành của của hình thức như những câu văn sai ngữ pháp, đến không hiểu đầu đuôi...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cảm hứng nguyên thủy trong mỹ thuật hiện đại Cảm hứng nguyên thủy trong mỹ thuật hiện đại (*) Thái Bá Vân [...]Nghệ thuật hiện đại có thể rút ở nghệ thuật nguyên thuỷ một bài học tạo hình, nhất là ở điêu khắc Châu Phi. Đó là sự tươi mát tự nhiên của xúc cảm, sự đơn giản trong sạch nào đấy của bản năng ngôn ngữ hình thể, tính vô tư của kỹ thuật, một chừng mực vẻ đẹp tinh thần, độc lập, chứ không phải là tự tiện đón lấy ở nó cái ý nghĩa dở dang, vô lý, không hoàn thành của của hình thức như những câu văn sai ngữ pháp, đến không hiểu đầu đuôi ra sao cả... Cảm hứng nguyên thủy trong mỹ thuật hiện đại (*) Ly dị với truyền thống cổ điển, đi tìm lại hình thù của biên giới tạo hình trong tiếng vọng xa xôi của tạo vật, là một trong những biểu ngữ đối phó trước ngõ cụt của Nghệ thuật phương Tây đầu thế kỷ 20 này. Đầu thế kỷ 20 này, các nghệ sĩ đã thấy tù bức lắm với khuôn thước của nghệ thuật Hy-La, phải đi tìm những chân trời mới. Không còn gì là vĩnh cửu để bất khả xâm phạm nữa. No ứ nền văn minh ngột ngạt những tiếng máy bụi bặm, chói chang những ánh điện vô tình, lại bế tắc tinh thần, thì bản năng sinh tồn của ông tư bản già Châu Âu ắt lại khát những dòng suối dại trên những hòn đảo xa, lại thèm khát chất thuần khiết hồn nhiên của những nền văn minh chậm chạp. Ta đừng quên rằng giữa thế kỷ 19 có cả một tủ sách triết học và tiểu thuyết không tưởng. Nó lãng mạn đến mức bịa ra được một năm 2000 trở về thời đại thủ công, mọi người mặc quần áo thời Trung cổ và gọi nhau là bạn láng giềng. Hướng về cái sơ khai man dại, thì nhất định phải gặp tâm lý nguyên thuỷ. Nghệ thuật đòi được trả về với tự nhiên. Và J.JRuxô đã chuẩn bị hành lý cho các nghệ sĩ lên đường, bằng sự đảm bảo: Nghệ thuật càng ít bị hào nhoáng bởi lớp sơn văn hóa bao nhiêu, thì càng xác thực bấy nhiêu. Ngày mồng 4 tháng 4 năm 1891, Pôl Gôganh, vó ngựa trường trinh nhất của hội họa hiện đại phương Tây hăm hở cặp bờ Tahiti, để lại đằng sau mình tám người bạn đường trong nhóm Pont Aven và một sự phân hóa. Người thì trở về với xu hướng ấn tượng, hay không chịu đựng cái tâm lý phù du đó, thì đành chững chạc bề ngoài với hư danh của chủ nghĩa Cổ điển, hoặc đắm trong điệu nhạc huyền bí Tượng trưng đang tàn sau thơ Véc-len, tiếng kêu đau thương của một tâm hồn đầy xúc cảm, khao khát ánh sáng, muốn thương yêu con người nhưng không thể được. Châu Âu vật chất và duy lý, thế mà nghèo sức sống. Còn những gì sót lại trong mình của nền văn minh hiện đại, Gôganh tận diệt. Ông muốn tìm lại cái bí mật của cuộc đời trần, sự thuần khiết của tuổi hoang sơ, những xúc động nguyên vẹn sáng tạo khi mới là bắt đầu. Gửi thư về Pari cho bạn bè, ông viết, là mình đang được tái sinh giữa cái êm đềm và giàu sang của thiên nhiên, giữa những đêm đại dương bao la và đường bệ. Ông ăn mặc như người Maori, học nói các thổ ngữ của quần đảo Pôlinêdi, từ tàn phá trong tình yêu cô gái Têhara nào đấy. Trong Cảnh vật Tahiti (1891), Bao giờ đằng ấy lấy chồng? (1892-để ở Balơ), Những người đàn bà Tahiti (Luvơrơ)...niềm khoái lạc nguyên thuỷ nằng nặng trần truồng trên những tấm thân đàn bà hoang dại, đang nở ra trong sức tranh hoàng huyền diệu của một thiên nhiên đỏ chót, thần tiên. Càng về sau, tâm hồn nguyên thuỷ càng đọng trong hội hoạ của ông, đến ngớ ngẩn mà bàng hoàng tự hỏi: Chúng ta từ đâu tới? Chúng ta là gì? Chúng ta về đâu bây giờ? (1899-Bôxtông). Những nơi vẽ đượm nồng nhất sau 8 năm ở đảo. Những khuôn mặt bần thần, như không thể dứt bỏ được giây tơ lưu luyến của đất trời hoang mạc, thầm thì trong tiếng động tôn giáo của cây rừng. Gôganh rất có ý thức trong việc trở lại ngọn nguồn của rung cảm thẩm mỹ trên tầm thước lớn lao của nghệ thuật nguyên thuỷ. Ông nói man rợ đối với tôi là một sự trẻ lại. Và thực tế, thì ông cũng đã hồi sinh cho thứ nghệ thuật già cỗi của Châu Âu, bấy giờ đang khủng hoảng, bằng cách đốt bừng lên ngọn lửa cuối cùng của hưng phấn, đã làm sức tưởng tượng của mình tươi tốt lại. Nghệ thuật nguyên thuỷ là thứ nghệ thuật tinh khiết và chân thật nhất (kể cả khi nó mang mặc cảm tín ngưỡng, ma thuật). Nó không lừa dối chúng ta qua sự khôn khéo của trí óc hay bàn tay kỹ thuật, cái mà một người văn minh nào cũng có thể làm. Người nguyên thuỷ không khoe khoang, vụ lợi. Làm nghệ thuật đối với họ chưa phải là một nghề. Bởi thế mà khi phụ nữ Anhđiêng (Indiens des Plaines) vẽ những hình trang trí kiểu hình học, hay đám đàn ông Mêhicô cổ tạc những chân dung tả thực, thì lý do chân chính của họ là sự đòi hỏi bên trong. Vì không có sự vướng víu môi giới của khoa học kỹ thuật nên những thể dạng họ dùng để biểu đạt, chính là con đẻ trực tiếp và tự nhiên của tâm tưởng. Nó vẫn thuyết minh thắng những cảm xúc và biểu hiện, bởi vậy mà thuần chất và thực sự là hợp lý. Ngày nay, các họa sĩ và điêu khắc được đào tạo ở nhà trường. Các nghệ sĩ được chứng thực bởi bằng cấp. Điều đó tốt nhưng còn kéo thêm có những phản tác dụng. Chẳng hạn như người văn minh kia, khi nắm đủ mọi kỹ thuật, thuộc lòng giải phẫu thân thể và phép viễn cận, thì hoàn toàn có đủ phương tiện để vô cớ vẽ lên một hình người khéo léo, một trang trí khôn ngoan, một cách vụ lợi, không xúc động, hoặc còn cố tình chép lại của người khác với bàn tay tinh tế. Anh đã tự nguyện đánh tráo cái phẩm chất cơ sở của nghệ thuật là xúc cảm. Người văn minh kia khi đã đứng trước giá vẽ với áo choàng trắng với những hộp màu ngon lành của nền sản xuất đại công nghiệp, thì không thể chối cãi được rằng anh rất biết mình là nghệ sĩ. Nhưng người nguyên thuỷ thì trái lại, họ sống giữa tự nhiên như chim, như lá. Rồi khi tác phẩm đã hoàn thành thì bản năng thầm kín của họ vẫn chưa kịp báo cho ý thức họ biết, rằng họ đã làm nghệ thuật, Còn có sự thành thật nào hơn. Rồi, thời gian sẽ rũ bỏ bằng hết mọi sai lầm và ngộ nhận. Nhưng hiện nay thì lịch sử các nền văn minh vẫn còn chịu một số điểm xuyên tạc: Có người vẫn còn cố xây dựng một lý thuyết kỳ quái, đòi tách cái gọi là Nền văn minh Phương Tây ra khỏi nền văn minh phương Đông, Cực Đông và của các dân t ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cảm hứng nguyên thủy trong mỹ thuật hiện đại Cảm hứng nguyên thủy trong mỹ thuật hiện đại (*) Thái Bá Vân [...]Nghệ thuật hiện đại có thể rút ở nghệ thuật nguyên thuỷ một bài học tạo hình, nhất là ở điêu khắc Châu Phi. Đó là sự tươi mát tự nhiên của xúc cảm, sự đơn giản trong sạch nào đấy của bản năng ngôn ngữ hình thể, tính vô tư của kỹ thuật, một chừng mực vẻ đẹp tinh thần, độc lập, chứ không phải là tự tiện đón lấy ở nó cái ý nghĩa dở dang, vô lý, không hoàn thành của của hình thức như những câu văn sai ngữ pháp, đến không hiểu đầu đuôi ra sao cả... Cảm hứng nguyên thủy trong mỹ thuật hiện đại (*) Ly dị với truyền thống cổ điển, đi tìm lại hình thù của biên giới tạo hình trong tiếng vọng xa xôi của tạo vật, là một trong những biểu ngữ đối phó trước ngõ cụt của Nghệ thuật phương Tây đầu thế kỷ 20 này. Đầu thế kỷ 20 này, các nghệ sĩ đã thấy tù bức lắm với khuôn thước của nghệ thuật Hy-La, phải đi tìm những chân trời mới. Không còn gì là vĩnh cửu để bất khả xâm phạm nữa. No ứ nền văn minh ngột ngạt những tiếng máy bụi bặm, chói chang những ánh điện vô tình, lại bế tắc tinh thần, thì bản năng sinh tồn của ông tư bản già Châu Âu ắt lại khát những dòng suối dại trên những hòn đảo xa, lại thèm khát chất thuần khiết hồn nhiên của những nền văn minh chậm chạp. Ta đừng quên rằng giữa thế kỷ 19 có cả một tủ sách triết học và tiểu thuyết không tưởng. Nó lãng mạn đến mức bịa ra được một năm 2000 trở về thời đại thủ công, mọi người mặc quần áo thời Trung cổ và gọi nhau là bạn láng giềng. Hướng về cái sơ khai man dại, thì nhất định phải gặp tâm lý nguyên thuỷ. Nghệ thuật đòi được trả về với tự nhiên. Và J.JRuxô đã chuẩn bị hành lý cho các nghệ sĩ lên đường, bằng sự đảm bảo: Nghệ thuật càng ít bị hào nhoáng bởi lớp sơn văn hóa bao nhiêu, thì càng xác thực bấy nhiêu. Ngày mồng 4 tháng 4 năm 1891, Pôl Gôganh, vó ngựa trường trinh nhất của hội họa hiện đại phương Tây hăm hở cặp bờ Tahiti, để lại đằng sau mình tám người bạn đường trong nhóm Pont Aven và một sự phân hóa. Người thì trở về với xu hướng ấn tượng, hay không chịu đựng cái tâm lý phù du đó, thì đành chững chạc bề ngoài với hư danh của chủ nghĩa Cổ điển, hoặc đắm trong điệu nhạc huyền bí Tượng trưng đang tàn sau thơ Véc-len, tiếng kêu đau thương của một tâm hồn đầy xúc cảm, khao khát ánh sáng, muốn thương yêu con người nhưng không thể được. Châu Âu vật chất và duy lý, thế mà nghèo sức sống. Còn những gì sót lại trong mình của nền văn minh hiện đại, Gôganh tận diệt. Ông muốn tìm lại cái bí mật của cuộc đời trần, sự thuần khiết của tuổi hoang sơ, những xúc động nguyên vẹn sáng tạo khi mới là bắt đầu. Gửi thư về Pari cho bạn bè, ông viết, là mình đang được tái sinh giữa cái êm đềm và giàu sang của thiên nhiên, giữa những đêm đại dương bao la và đường bệ. Ông ăn mặc như người Maori, học nói các thổ ngữ của quần đảo Pôlinêdi, từ tàn phá trong tình yêu cô gái Têhara nào đấy. Trong Cảnh vật Tahiti (1891), Bao giờ đằng ấy lấy chồng? (1892-để ở Balơ), Những người đàn bà Tahiti (Luvơrơ)...niềm khoái lạc nguyên thuỷ nằng nặng trần truồng trên những tấm thân đàn bà hoang dại, đang nở ra trong sức tranh hoàng huyền diệu của một thiên nhiên đỏ chót, thần tiên. Càng về sau, tâm hồn nguyên thuỷ càng đọng trong hội hoạ của ông, đến ngớ ngẩn mà bàng hoàng tự hỏi: Chúng ta từ đâu tới? Chúng ta là gì? Chúng ta về đâu bây giờ? (1899-Bôxtông). Những nơi vẽ đượm nồng nhất sau 8 năm ở đảo. Những khuôn mặt bần thần, như không thể dứt bỏ được giây tơ lưu luyến của đất trời hoang mạc, thầm thì trong tiếng động tôn giáo của cây rừng. Gôganh rất có ý thức trong việc trở lại ngọn nguồn của rung cảm thẩm mỹ trên tầm thước lớn lao của nghệ thuật nguyên thuỷ. Ông nói man rợ đối với tôi là một sự trẻ lại. Và thực tế, thì ông cũng đã hồi sinh cho thứ nghệ thuật già cỗi của Châu Âu, bấy giờ đang khủng hoảng, bằng cách đốt bừng lên ngọn lửa cuối cùng của hưng phấn, đã làm sức tưởng tượng của mình tươi tốt lại. Nghệ thuật nguyên thuỷ là thứ nghệ thuật tinh khiết và chân thật nhất (kể cả khi nó mang mặc cảm tín ngưỡng, ma thuật). Nó không lừa dối chúng ta qua sự khôn khéo của trí óc hay bàn tay kỹ thuật, cái mà một người văn minh nào cũng có thể làm. Người nguyên thuỷ không khoe khoang, vụ lợi. Làm nghệ thuật đối với họ chưa phải là một nghề. Bởi thế mà khi phụ nữ Anhđiêng (Indiens des Plaines) vẽ những hình trang trí kiểu hình học, hay đám đàn ông Mêhicô cổ tạc những chân dung tả thực, thì lý do chân chính của họ là sự đòi hỏi bên trong. Vì không có sự vướng víu môi giới của khoa học kỹ thuật nên những thể dạng họ dùng để biểu đạt, chính là con đẻ trực tiếp và tự nhiên của tâm tưởng. Nó vẫn thuyết minh thắng những cảm xúc và biểu hiện, bởi vậy mà thuần chất và thực sự là hợp lý. Ngày nay, các họa sĩ và điêu khắc được đào tạo ở nhà trường. Các nghệ sĩ được chứng thực bởi bằng cấp. Điều đó tốt nhưng còn kéo thêm có những phản tác dụng. Chẳng hạn như người văn minh kia, khi nắm đủ mọi kỹ thuật, thuộc lòng giải phẫu thân thể và phép viễn cận, thì hoàn toàn có đủ phương tiện để vô cớ vẽ lên một hình người khéo léo, một trang trí khôn ngoan, một cách vụ lợi, không xúc động, hoặc còn cố tình chép lại của người khác với bàn tay tinh tế. Anh đã tự nguyện đánh tráo cái phẩm chất cơ sở của nghệ thuật là xúc cảm. Người văn minh kia khi đã đứng trước giá vẽ với áo choàng trắng với những hộp màu ngon lành của nền sản xuất đại công nghiệp, thì không thể chối cãi được rằng anh rất biết mình là nghệ sĩ. Nhưng người nguyên thuỷ thì trái lại, họ sống giữa tự nhiên như chim, như lá. Rồi khi tác phẩm đã hoàn thành thì bản năng thầm kín của họ vẫn chưa kịp báo cho ý thức họ biết, rằng họ đã làm nghệ thuật, Còn có sự thành thật nào hơn. Rồi, thời gian sẽ rũ bỏ bằng hết mọi sai lầm và ngộ nhận. Nhưng hiện nay thì lịch sử các nền văn minh vẫn còn chịu một số điểm xuyên tạc: Có người vẫn còn cố xây dựng một lý thuyết kỳ quái, đòi tách cái gọi là Nền văn minh Phương Tây ra khỏi nền văn minh phương Đông, Cực Đông và của các dân t ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Cảm hứng nguyên thủy Nghệ thuật hiện đạ phê bình nghệ thuật trường phái nghệ thuật kiến thức mỹ thuật danh họa nổi tiếng mỹ thuật việt nam mỹ thuật truyền thôngTài liệu có liên quan:
-
Tranh biếm họa trào phúng của họa sỹ Pawel Kuczynski
10 trang 349 0 0 -
Tài liệu Lịch sử mỹ thuật Việt Nam
20 trang 173 4 0 -
7 trang 88 0 0
-
10 trang 64 0 0
-
Sơ lược về Mỹ thuật thời Trần (1226-1400)
10 trang 63 0 0 -
Giáo trình Vẽ mỹ thuật 1: Vẽ bút sắt - Trần Văn Tâm
46 trang 62 1 0 -
CHÂN DUNG HỌA SỸ NGUYỄN GIA TRÍ
3 trang 53 1 0 -
8 trang 51 0 0
-
Design trong thiết kế Mỹ thuật vì cuộc sống
9 trang 50 0 0 -
TRANH GƯƠNG CUNG ĐÌNH MỸ THUẬT HUẾ
7 trang 49 0 0 -
5 trang 48 0 0
-
Chạm khắc gỗ - Nghệ thuật thổi hồn vào cội rễ
21 trang 48 0 0 -
MỖI BỨC TRANH MỸ THUẬT - MỘT TẤM LÒNG
11 trang 48 0 0 -
QUANG LONG TỰ CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC ĐỘC ĐÁO
5 trang 48 0 0 -
Tìm hiểu về điêu khắc Gỗ dân gian
12 trang 47 0 0 -
ĐÔI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT MỸ THUẬT SƠN MÀI VIỆT NAM
8 trang 46 0 0 -
Tìm hiểu về Tranh dân gian Việt Nam: Phần 2
14 trang 45 0 0 -
20 trang 45 0 0
-
Đẹp ngỡ ngàng vườn tượng Phật trên đất nước Lào
8 trang 44 0 0 -
5 trang 44 0 0