Chuyến đi Dương trình hiệu lực năm 1844 và tư tưởng Cao Bá Quát .
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 206.95 KB
Lượt xem: 1
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Việc Cao Bá Quát khởi nghĩa chống lại nhà Nguyễn là kết tinh của nhiều nhân tố trong con người ông: phong cách tư tưởng phóng khoáng, cởi mở, không gò bó; tinh thần thân dân mạnh mẽ; ý thức xã hội sâu sắc
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chuyến đi Dương trình hiệu lực năm 1844 và tư tưởng Cao Bá Quát . Chuyến đi Dương trìnhhiệu lực năm 1844 và tư tưởng Cao Bá Quát Việc Cao Bá Quát khởi nghĩa chống lại nhà Nguyễn là kết tinh của nhiều nhân tốtrong con người ông: phong cách tư tưởng phóng khoáng, cởi mở, không gò bó; tinhthần thân dân mạnh mẽ; ý thức xã hội sâu sắc… Các nhân tố này tất nhiên một phần dobẩm sinh (phong cách tư tưởng), nhưng phần quan trọng hơn là do học tập, tiếp xúc,quan sát, hoạt động thực tiễn xã hội mà hình thành và phát triển (tư tưởng thân dân và ýthức xã hội). Trong bài viết này, chúng tôi xin dừng lại phân tích vai trò của chuyến đidương trình hiệu lực năm 1844 đối với sự hình thành tư tưởng xã hội của nhà thơ này. Việc ông bị đưa đi dương trình hiệu lực là một sự kiện trọng đại đối với Cao BáQuát, đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng của ông. Trong cái rủi có cái may.Nhờ có ra nước ngoài, tiếp xúc với nền văn minh phi truyền thống, văn hóa Đông NamÁ và nhất là văn hóa phương Tây lúc ấy đã có mặt ở phương Đông qua những nhân vậtđại diện như nhà truyền giáo và thương nhân, một cơ may không dễ gì nhà nho nào khiấy cũng có được, tư tưởng Cao Bá Quát đã có những thay đổi quan trọng. Phân tích bảnchất và ý nghĩa của sự thay đổi tư tưởng này sẽ là một nhiệm vụ của bài viết. Lại nữa,nếu coi cuộc tiếp xúc này của Cao Bá Quát là những bước hội nhập quốc tế đầu tiên củangười Việt, ta cũng có thể đưa ra một số nhận xét hữu ích. * Vấn đề cần quan tâm là Cao Bá Quát đi nước nào, nội dung của sứ đoàn và chứctrách cụ thể của ông? Về chuyến đi này, trước đây giới nghiên cứu Việt Nam mới chỉ nói chung là đi cácnước Đông Nam Á với nội dung mua sắm hàng xa xỉ. Trong lời giới thiệu tập Thơ chữ HánCao Bá Quát, Vũ Khiêu viết: “Phái đoàn của ông đi Inđônêxia và Campuchia mục đích chủyếu là đem đường bán cho nước ngoài để mua sắm những hàng xa xỉ cho triều đình”(1). Vềthời gian, lời giới thiệu này cho biết sứ đoàn về lại Đà Nẵng cuối mùa hè năm 1843. Trong Cao Bá Quát, con người và tư tưởng, Nguyễn Tài Thư viết: “Đầu xuân 1843,ông bị ghép vào đoàn của Đào Trí Phú. Đoàn lên thuyền lớn Long Nhương đi các nướcMalaixia, Xanhgapo, Indonexia làm các công việc mua hàng cho vua”(2). Gần đây, các nghiên cứu của Claudine Salmon – Tạ Trọng Hiệp và của Vĩnh Sính đãđem lại một đóng góp quan trọng cho việc nghiên cứu vấn đề này. Theo thông tin từ ĐạiNam thực lục, cũng như dựa vào nghiên cứu của Chen Ching Ho (Trần Kinh Hòa), thấy đờiThiệu Trị năm thứ 3, Ất Tỵ, Cao Bá Quát đi dương trình hiệu lực ở miền Hạ Châu, một từ chỉchung cảng Singapore, và từ năm 1826 đến 1840 chỉ chung Malaka, Pinang và Singapore.Vĩnh Sính viết: “Vào thời điểm 1844, khi Cao Bá Quát được phái đi công vụ, danh xưng HạChâu trên nguyên tắc được dùng không những để chỉ Singapore mà còn để gọi cả Penang vàMalacca- tức là các thuộc địa trên eo biển Malacca mà tiếng Anh gọi chung là StraitsSettlements”(3). Trong bài khảo cứu công phu của mình, Vĩnh Sính cho rằng phái bộ của CaoBá Quát đi dọc theo các thuộc địa của người Tây phương trên eo biển Malacca. Trong cácnội dung hoạt động của sứ bộ mà nhà Nguyễn phái đi trên hướng mới này theo Vĩnh Sính làmua chiếc tàu chiến chạy bằng hơi nước của người Anh được đặt tên là Điện Phi, (nếu đúngnhư vậy thì việc mua bán này đã diễn ra tại Singapore, lúc này đã là thuộc địa rất phát đạt củaAnh quốc- và ta có thể nghĩ về khả năng Cao Bá Quát đi Singapore); ngoài ra có thể muahàng nỉ, thủy tinh và thăm dò tình hình trên vùng thuộc địa của phương Tây này. Tạ TrọngHiệp trong bài trả lời phỏng vấn Thụy Khuê, cũng cho rằng mục đích các chuyến đi sứ sangĐông Nam Á thời Nguyễn là: “1. Thông tin về mặt chính trị và quân sự về sự đe dọa của Tây phương;2. Tìm hiểu xem họ tổ chức thương nghiệp như thế nào, đồng thời mua bán với họ một sốhàng hóa”(4). Về chức trách và nhiệm vụ của Cao Bá Quát, hai nhà nghiên cứu nói trên lần đầu tiênđã đưa ra một nhận định quan trọng, tuy rất hiển nhiên mà trước đó chưa có ai nêu lên. VĩnhSính viết: “Trong chuyến đi “dương trình hiệu lực”, nhiệm vụ Cao Bá Quát trong phái đoànlà gì? Câu hỏi này từ trước tới nay hình như chưa có ai đưa ra. Theo thiển ý của chúng tôi,phải chăng vì nổi tiếng xuất chúng về văn thơ chữ Hán, Cao Bá Quát đã được giao phó tráchnhiệm tiếp xúc với người Hoa trên các thuộc địa của người Âu châu, bút đàm với họ nhằmtìm hiểu và thu thập thông tin về động tĩnh của người Âu châu trên những vùng mà phái bộghé qua? Trong những bài thơ Cao Bá Quát sáng tác lúc xuất dương thỉnh thoảng có nhắcđến một vài thương nhân người Hoa mà tác giả đã gặp; điều này ít nhiều khẳng định giả thiếtnói trên. Ngoài ra, cần để ý là trong những bài thơ mà Cao Bá Quát sáng tác trong thời kỳxuất dương, ông có nhắc đến chức vụ của ông là “tham quân” và đã phần nào biểu lộ ý thứctrách nhiệm của ông về chức vụ này”. Tạ Trọng Hiệp cũng phán đoán rất có lý: “Vấn đề đầutiên của người được đi ra nước ngoài là vấn đề bất thông ngôn ngữ. Câu hỏi khi bắt đầu đọcPhan Huy Chú là: Ông ấy biết tiếng Hòa Lan hay biết tiếng Indonesia hồi đó ra sao? Theochúng tôi biết thì ông ấy cũng như nhiều sứ giả, mà sau đó vua Nguyễn gửi đi như Lý VănPhức và Cao Bá Quát, v.v... làm việc ở những vùng đó một thời gian ngắn hay dài và có thulượm được nhiều thông tin khá chính xác, là qua môi giới, môi trường của những người Hoa,cùng văn hóa chữ Hán với họ. Trong số người này, có người có trình độ văn hóa không thấp,đã tiếp đón họ trong thời gian họ đến công tác; lại còn thết tiệc hoặc dẫn họ đi thăm thắngcảnh và giải thích cho họ thêm về hoạt động của chính quyền ở những vùng đó. Thông tincủa Phan Huy Chú có hai nguồn: Thứ nhất là mắt thấy, tai nghe; sự quan sát của một ngườinhư Phan Huy Chú, có trình độ văn hóa cao. Và thứ hai là người Hoa tại địa phương cungcấp. Ðấy là điều mà chúng tôi thấy rất rõ”(5). Nhận định trên là hoàn toàn có căn cứ. Giaithoại về ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chuyến đi Dương trình hiệu lực năm 1844 và tư tưởng Cao Bá Quát . Chuyến đi Dương trìnhhiệu lực năm 1844 và tư tưởng Cao Bá Quát Việc Cao Bá Quát khởi nghĩa chống lại nhà Nguyễn là kết tinh của nhiều nhân tốtrong con người ông: phong cách tư tưởng phóng khoáng, cởi mở, không gò bó; tinhthần thân dân mạnh mẽ; ý thức xã hội sâu sắc… Các nhân tố này tất nhiên một phần dobẩm sinh (phong cách tư tưởng), nhưng phần quan trọng hơn là do học tập, tiếp xúc,quan sát, hoạt động thực tiễn xã hội mà hình thành và phát triển (tư tưởng thân dân và ýthức xã hội). Trong bài viết này, chúng tôi xin dừng lại phân tích vai trò của chuyến đidương trình hiệu lực năm 1844 đối với sự hình thành tư tưởng xã hội của nhà thơ này. Việc ông bị đưa đi dương trình hiệu lực là một sự kiện trọng đại đối với Cao BáQuát, đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng của ông. Trong cái rủi có cái may.Nhờ có ra nước ngoài, tiếp xúc với nền văn minh phi truyền thống, văn hóa Đông NamÁ và nhất là văn hóa phương Tây lúc ấy đã có mặt ở phương Đông qua những nhân vậtđại diện như nhà truyền giáo và thương nhân, một cơ may không dễ gì nhà nho nào khiấy cũng có được, tư tưởng Cao Bá Quát đã có những thay đổi quan trọng. Phân tích bảnchất và ý nghĩa của sự thay đổi tư tưởng này sẽ là một nhiệm vụ của bài viết. Lại nữa,nếu coi cuộc tiếp xúc này của Cao Bá Quát là những bước hội nhập quốc tế đầu tiên củangười Việt, ta cũng có thể đưa ra một số nhận xét hữu ích. * Vấn đề cần quan tâm là Cao Bá Quát đi nước nào, nội dung của sứ đoàn và chứctrách cụ thể của ông? Về chuyến đi này, trước đây giới nghiên cứu Việt Nam mới chỉ nói chung là đi cácnước Đông Nam Á với nội dung mua sắm hàng xa xỉ. Trong lời giới thiệu tập Thơ chữ HánCao Bá Quát, Vũ Khiêu viết: “Phái đoàn của ông đi Inđônêxia và Campuchia mục đích chủyếu là đem đường bán cho nước ngoài để mua sắm những hàng xa xỉ cho triều đình”(1). Vềthời gian, lời giới thiệu này cho biết sứ đoàn về lại Đà Nẵng cuối mùa hè năm 1843. Trong Cao Bá Quát, con người và tư tưởng, Nguyễn Tài Thư viết: “Đầu xuân 1843,ông bị ghép vào đoàn của Đào Trí Phú. Đoàn lên thuyền lớn Long Nhương đi các nướcMalaixia, Xanhgapo, Indonexia làm các công việc mua hàng cho vua”(2). Gần đây, các nghiên cứu của Claudine Salmon – Tạ Trọng Hiệp và của Vĩnh Sính đãđem lại một đóng góp quan trọng cho việc nghiên cứu vấn đề này. Theo thông tin từ ĐạiNam thực lục, cũng như dựa vào nghiên cứu của Chen Ching Ho (Trần Kinh Hòa), thấy đờiThiệu Trị năm thứ 3, Ất Tỵ, Cao Bá Quát đi dương trình hiệu lực ở miền Hạ Châu, một từ chỉchung cảng Singapore, và từ năm 1826 đến 1840 chỉ chung Malaka, Pinang và Singapore.Vĩnh Sính viết: “Vào thời điểm 1844, khi Cao Bá Quát được phái đi công vụ, danh xưng HạChâu trên nguyên tắc được dùng không những để chỉ Singapore mà còn để gọi cả Penang vàMalacca- tức là các thuộc địa trên eo biển Malacca mà tiếng Anh gọi chung là StraitsSettlements”(3). Trong bài khảo cứu công phu của mình, Vĩnh Sính cho rằng phái bộ của CaoBá Quát đi dọc theo các thuộc địa của người Tây phương trên eo biển Malacca. Trong cácnội dung hoạt động của sứ bộ mà nhà Nguyễn phái đi trên hướng mới này theo Vĩnh Sính làmua chiếc tàu chiến chạy bằng hơi nước của người Anh được đặt tên là Điện Phi, (nếu đúngnhư vậy thì việc mua bán này đã diễn ra tại Singapore, lúc này đã là thuộc địa rất phát đạt củaAnh quốc- và ta có thể nghĩ về khả năng Cao Bá Quát đi Singapore); ngoài ra có thể muahàng nỉ, thủy tinh và thăm dò tình hình trên vùng thuộc địa của phương Tây này. Tạ TrọngHiệp trong bài trả lời phỏng vấn Thụy Khuê, cũng cho rằng mục đích các chuyến đi sứ sangĐông Nam Á thời Nguyễn là: “1. Thông tin về mặt chính trị và quân sự về sự đe dọa của Tây phương;2. Tìm hiểu xem họ tổ chức thương nghiệp như thế nào, đồng thời mua bán với họ một sốhàng hóa”(4). Về chức trách và nhiệm vụ của Cao Bá Quát, hai nhà nghiên cứu nói trên lần đầu tiênđã đưa ra một nhận định quan trọng, tuy rất hiển nhiên mà trước đó chưa có ai nêu lên. VĩnhSính viết: “Trong chuyến đi “dương trình hiệu lực”, nhiệm vụ Cao Bá Quát trong phái đoànlà gì? Câu hỏi này từ trước tới nay hình như chưa có ai đưa ra. Theo thiển ý của chúng tôi,phải chăng vì nổi tiếng xuất chúng về văn thơ chữ Hán, Cao Bá Quát đã được giao phó tráchnhiệm tiếp xúc với người Hoa trên các thuộc địa của người Âu châu, bút đàm với họ nhằmtìm hiểu và thu thập thông tin về động tĩnh của người Âu châu trên những vùng mà phái bộghé qua? Trong những bài thơ Cao Bá Quát sáng tác lúc xuất dương thỉnh thoảng có nhắcđến một vài thương nhân người Hoa mà tác giả đã gặp; điều này ít nhiều khẳng định giả thiếtnói trên. Ngoài ra, cần để ý là trong những bài thơ mà Cao Bá Quát sáng tác trong thời kỳxuất dương, ông có nhắc đến chức vụ của ông là “tham quân” và đã phần nào biểu lộ ý thứctrách nhiệm của ông về chức vụ này”. Tạ Trọng Hiệp cũng phán đoán rất có lý: “Vấn đề đầutiên của người được đi ra nước ngoài là vấn đề bất thông ngôn ngữ. Câu hỏi khi bắt đầu đọcPhan Huy Chú là: Ông ấy biết tiếng Hòa Lan hay biết tiếng Indonesia hồi đó ra sao? Theochúng tôi biết thì ông ấy cũng như nhiều sứ giả, mà sau đó vua Nguyễn gửi đi như Lý VănPhức và Cao Bá Quát, v.v... làm việc ở những vùng đó một thời gian ngắn hay dài và có thulượm được nhiều thông tin khá chính xác, là qua môi giới, môi trường của những người Hoa,cùng văn hóa chữ Hán với họ. Trong số người này, có người có trình độ văn hóa không thấp,đã tiếp đón họ trong thời gian họ đến công tác; lại còn thết tiệc hoặc dẫn họ đi thăm thắngcảnh và giải thích cho họ thêm về hoạt động của chính quyền ở những vùng đó. Thông tincủa Phan Huy Chú có hai nguồn: Thứ nhất là mắt thấy, tai nghe; sự quan sát của một ngườinhư Phan Huy Chú, có trình độ văn hóa cao. Và thứ hai là người Hoa tại địa phương cungcấp. Ðấy là điều mà chúng tôi thấy rất rõ”(5). Nhận định trên là hoàn toàn có căn cứ. Giaithoại về ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài liệu văn học văn học nghị luận quan điểm văn học văn học tham khảo nghị luận văn họcTài liệu có liên quan:
-
9 trang 3510 1 0
-
Viết đoạn văn so sánh ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ bà Huyện Thanh Quan
2 trang 808 0 0 -
Phân tích bài thơ 'Trở về quê nội' của Lê Anh Xuân
7 trang 785 0 0 -
Phân tích tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu
13 trang 776 0 0 -
6 trang 628 0 0
-
2 trang 468 0 0
-
Thuyết minh về tác gia văn học Xuân Diệu
6 trang 428 0 0 -
4 trang 403 0 0
-
Bình giảng về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
9 trang 373 0 0 -
Ý nghĩa phê phán sâu kín của trích đoạn phóng sự Nghệ thuật băm thịt gà
3 trang 277 5 0