Danh mục tài liệu

Đánh giá nồng độ Prolactin, IgE trước, sau điều trị bệnh nhân vảy nến thông thường bằng Methotrexat đơn thuần và Methotrexat kết hợp PUVA tại Bệnh viện Phong – Da liễu Trung Ương Quy Hòa năm 2018-2020

Số trang: 17      Loại file: pdf      Dung lượng: 453.08 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết trình bày đánh giá nồng độ prolactin, ige trước, sau điều trị bệnh nhân vảy nến thông thường bằng methotrexat đơn thuần và methotrexat kết hợp PUVA tại Bệnh viện Phong – Da liễu TW Quy Hòa (BVQH).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá nồng độ Prolactin, IgE trước, sau điều trị bệnh nhân vảy nến thông thường bằng Methotrexat đơn thuần và Methotrexat kết hợp PUVA tại Bệnh viện Phong – Da liễu Trung Ương Quy Hòa năm 2018-2020 Đánh giá nồng độ Prolactin, IgE trước, sau điều trị bệnh nhân vảy nếnthông thường bằng Methotrexat đơn thuần và Methotrexat kết hợp PUVA tại Bệnh viện Phong – Da liễu Trung Ương Quy Hòa năm 2018-2020. Nguyễn Thế Toàn Bệnh viện Phong – Da liễu TW Quy HòaTổng quan: Bệnh vảy nến là bệnh da mạn tính, tiến triển thất thường, ảnhhưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Sinh bệnh học bệnh vảynến còn một số vấn đề chưa sáng tỏ, nhưng cho đến nay đa số các tác giả đãthống nhất cho bệnh vảy nến là một bệnh rối loạn miễn dịch, trong đó IgE,Prolactin là hai loại miễn dịch có dấu ấn trong tế bào sừng của da đóng vai tròquan trọng trong cơ chế bệnh sinh vảy nến, ức chế hai loại này đem lại nhiềuthành tựu trong điều trị bệnh vảy nến [14],[18],[19],[20],[21]. Việc kết hợpthuốc Methotrexate và Quang trị liệu và quang hóa trị được coi là một phác đồtốt, chi phí rẻ và sạch thương tổn cho bệnh nhân vảy nến thể thông thường mứcđộ vừa, nặng [3]. Đánh giá nồng độ prolactin, ige trước, sau điều trị bệnh nhânvảy nến thông thường bằng methotrexat đơn thuần và methotrexat kết hợpPUVA là cơ sở kết luận cho hiệu quả điều trị bệnh vảy nến bằng hai phác đồtrên, từ đó lựa chọn được phương pháp điều trị tối ưu cho bệnh nhân vảy nến.Mục tiêu: Đánh giá nồng độ prolactin, ige trước, sau điều trị bệnh nhân vảy nếnthông thường bằng methotrexat đơn thuần và methotrexat kết hợp PUVA tạiBệnh viện Phong – Da liễu TW Quy Hòa (BVQH).Đối tượng và phương pháp: Bệnh nhân đến khám tại khoa khám bệnh, BVQHđược chẩn đoán là bệnh vảy nến, phương pháp mô tả cắt ngang có phân tích.Kết quả: 1. Nồng Prolactin trước điều trị trung bình là 11,9±22 ng/ml và sau điềutrị có trung bình 9,8±16,8 ng/ml.Nồng độ IgE trước điều trị trung bình 226,4±239,3 IU/mlvà sau điều trị trung bình197,5±225,7 IU/ml.2. Không có mối liên quan giữa nồng độ Prolactin trước và sau điều trị bằngMethotrexat đơn thuần và Methotrexat kết hợp PUVA. Không có mối liên quan giữa 1nồng độ IgE trước và sau điều trị bằng Methotrexat đơn thuần và Methotrexat kếthợp PUVA.3. Không có mối tương quan giữa nồng độ Prolactin với chỉ số PASI trước và sauđiều trị. Có mối tương quan thuận, mạnh giữa nồng độ IgE với chỉ số PASI trước vàsau điều trị.Kết luận: Nồng độ Prolactin và IgE sau khi điều trị giảm so với trước khi điềutrị. Tuy nhiên không tìm thấy mối liên quan giữa nồng độ Prolactin và IgE trướcvà sau điều trị bằng Methotrexat đơn thuần và Methotrexat kết hợp PUVA. Mặcdù không có mối tương quan giữa nồng độ Prolactin với chỉ số PASI trước và sauđiều trị nhưng có mối tương quan thuận, mạnh giữa nồng độ IgE với chỉ số PASItrước và sau điều trị.Từ khóa: Bệnh vảy nến, nồng độ Prolactin, nồng độ IgE, PASI, Methotrexat đơnthuần và Methotrexat kết hợp PUVA.I. ĐẶT VẤN ĐỀBệnh vảy nến là bệnh da mạn tính, gặp ở mọi lứa tuổi, cả hai giới, ở khắp cácchâu lục, chiếm tỷ lệ 1-3% dân số thế giới tùy theo các quốc gia, chủng tộc[1],[29]. Từ năm 1970 đến năm 2000, tỷ lệ người mắc vảy nến tăng lên gấp đôi[29]. Ở Việt Nam, tỷ lệ bệnh nhân vảy nến chiếm khoảng 2,2% tổng số bệnhnhân đến khám bệnh [9],[12],[17]. Sinh bệnh học bệnh vảy nến còn một số vấnđề chưa sáng tỏ, nhưng cho đến nay đa số các tác giả đã thống nhất cho bệnhvảy nến là một bệnh rối loạn miễn dịch, trong đó IgE, Prolactin là hai loại miễndịch có dấu ấn trong tế bào sừng của da đóng vai trò quan trọng trong cơ chếbệnh sinh vảy nến, ức chế hai loại này đem lại nhiều thành tựu trong điều trịbệnh vảy nến [14],[18],[19],[20],[21]. Methotrexate (MTX) là một thuốc có hiệuquả tốt nhất trong khống chế bệnh vảy nến và được coi như là “tiêu chuẩn vàng”(Gold standard) cho việc điều trị toàn thân bệnh vảy nến. Thuốc có tác dụng ứcchế phân bào (ức chế tăng sinh biểu bì) và tác dụng chống viêm rất mạnh, mạnhhơn cả các thuốc chống viêm hiện nay [2],[3]. Quang trị liệu và quang hóa trị làmột biện pháp hay được lựa chọn để điều trị tại chỗ hay toàn thân cho các bệnhnhân vảy nến thể nặng. Trong đó UVB và PUVA (UVA kết hợp với psoralen), 2là hai phương pháp hay được sử dụng. Cơ chế tác dụng của UVB liên quan khảnăng ức chế tăng sinh thượng bì do tác động lên nucleic của ADN của tia tửngoại làm cho tế bào không nhân đôi được [4],[8]. Việc kết hợp thuốcMethotrexate và Quang trị liệu và quang hóa trị được coi là một phác đồ tốt, chiphí rẻ và sạch thương tổn cho bệnh nhân vảy nến thể thông thường mức độ vừa,nặng [3]. Bệnh viện Phong – Da liễu Trung Ương Quy Hòa là tuyến Trung ươngkhám và điều trị chuyên sâu các bệnh da liễu ở Khu vực Miền Trung-TâyNguyên. Hằng năm, Bệnh viện tiếp nhận hàng ngàn bệnh nhân đ ...