
Gallery chỉ là... gallery
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 154.72 KB
Lượt xem: 21
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Gallery, đơn giản, chỉ là một đơn vị kinh doanh. Sự tồn tại của nó, căn bản, chịu sự chi phối của qui luật thị trường. Còn người mua tranh tượng gallery còn sống được, bằng không, gallery “chết chắc”! Sự hơn kém giữa các gallery, chủ yếu, tuỳ thuộc vào ý thức kinh doanh, trình độ kinh doanh chứ không phải là trình độ cảm thụ và đánh giá nghệ thuật. Họ cần nhạy cảm với chuyện khách hàng đối tượng thích và có thể mua cái gì hơn là những phát hiện mới mẻ, độc đáo nơi các...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Gallery chỉ là... gallery Gallery chỉ là... galleryGallery, đơn giản, chỉ là một đơn vị kinh doanh. Sự tồn tại của nó, cănbản, chịu sự chi phối của qui luật thị trường. Còn người mua tranhtượng gallery còn sống được, bằng không, gallery “chết chắc”! Sự hơnkém giữa các gallery, chủ yếu, tuỳ thuộc vào ý thức kinh doanh, trìnhđộ kinh doanh chứ không phải là trình độ cảm thụ và đánh giá nghệthuật. Họ cần nhạy cảm với chuyện khách hàng đối tượng thích và cóthể mua cái gì hơn là những phát hiện mới mẻ, độc đáo nơi các nghệ sĩv.v… Với những đặc điểm như vậy, gallery thực tế không có tác độnggì đáng kể đến sự phát triển của một nền mỹ thuật. Nó hiếm khi khíchlệ cho sự tìm tòi, sáng tạo. Các hoạt động triển lãm, tuyên truyền củanó – ở đâu cũng vậy – chỉ là “chiêng trống làm rộn ràng phiên chợ” màthôi!…Tôi cảm thấy cần phải ghi chú ngay điều này để lưu ý mấy điều :Một, cốt lõi mối quan hệ giữa gallery với các nghệ sĩ chỉ là chuyên tiềnbạc. Trong quan hệ này, không phải gallery mà chính tiền bạc mới làyếu tố tác động, chi phối nghệ sĩ. Phản ứng khác nhau thế nào là tuỳvào bản lĩnh nhân văn nơi mỗi người. Nếu như trong nhiều năm qua,hiện tượng “thương mại hóa” nghệ thuật trở thành phổ biến, thì lỗi,không do các gallery, do “kinh tế thị trường”, mà chính yếu, là do từnghọa sĩ. Rộng hơn, do thực tiển văn hóa –xã hội chúng ta “có vấn đề”…Hai, quan hệ giữa gallery với công chúng, thuần túy, chỉ là quan hệ thịtrường. Cụ thể là quan hệ “cung-cầu”. Mà ở đó, “cầu” đóng vai tròquyết định. Gallery không thể tạo ra được công chúng nghệ thuật.Gallery chỉ có thể lựa chọn khách hàng (Bằng các hoạt động tiếpthị…). Nếu như trong nhiều năm qua, phần lớn các gallery chỉ mua bánnhững tác phẩm mỹ thuật có phong cách “xa lạ”, “kém cỏi” hay, “thờithượng”, thì nguyên do chủ yếu thuộc về phía “cầu”. Và đây, cũng làmột vấn đề văn hóa-xã hội…Ba, quan hệ giữa gallery với gallery là quan hệ có “đẳng cấp”. Càngchuyên nghiệp thì sự phân định “đẳng cấp” giữa các gallery càng rạchròi. Điều này, cơ bản, tùy thuộc “thế giới khách hàng”. Có gallery chỉbán được cho khách du lịch, đối tượng bình dân; có gallery chỉ nhắmđến lớp người “ở trên”, giàu có; có gallery chỉ nhắm đến các nhà sưutập v.v… Cần phải thừa nhận sự phân hóa này là tự nhiên. Và, cần phảihết sức lưu ý rằng nó chủ yếu mang nội dung xã hội học hơn là nghệthuật. Nên nhớ: gallery có “đẳng cấp cao nhất” hiểu theo nghĩa bánđược tranh giá cao thì điều đó không có nghĩa nó ở vị trí đầu bảngtrong thế giới nghệ thuật. Ngọai trừ những tác phẩm thuộc về “di sản”có giá trị lịch sử, tác phẩm được bán giá cao, nhiều khi chỉ là cái “thờithượng” chứ chưa hẳn đã là cái “tiền phong”, có giá trị nghệ thuật. Tácphẩm nghệ thuật thực sự, nhiều khi nằm xếp xó đâu đó trong nhữnggallery hết sức bình dân (thường là như vậy). Ở Việt Nam mấy nămqua, có sự nhập nhằng về điều này. Tuy nhiên, nguyên do chủ yếukhông phải bởi các gallery “đánh tráo khái niệm” trong hoạt động tiếpthị như nhiều người đã nói, mà là, do sự bất cập-hay bất lực-của phêbình trong nước…Từ những lưu ý nêu trên, có thể kết luận:Một, không thể bàn chuyện “chống thương mại hóa” với các gallery.Đó là một ảo tưởng. Đây là trách nhiệm của cả nền văn hóa-giáo dục.Vấn đề đặt ra là, cho đến nay, chúng ta đã xây dựng được thiết chế vớinhững hoạt động gì phù hợp nhằm giành giật lại nghệ sĩ trước sự hấpdẫn, chi phối của quy luật thị trường. Ở các nước phát triển, người taluôn có những chính sách hổ trợ cho các nghệ sĩ tìm tòi, sáng tạo. Ở ta,điều này đã thực hiện được chưa?Hai, không thể bàn chuyện nâng cao chất lượng nghệ thuật trong hoạtđộng gallery, khi mà, khách hàng của các gallery chủ yếu là ngườinước ngoài, thực tế, không đòi hỏi cao về nghệ thuật, và, những ngườimới “nổi”, mua tranh với những mục đích, thường, là bên ngoài nghệthuật,. Quy luật cung-cầu chi phối tất cả. Vấn đề ở đây là, làm thế nàođể “tạo ra được” người mua tranh có khả năng cảm thụ và đánh giánghệ thuật là người trong nước. Nhưng đó, chỉ có thể là nổ lực của cảnền văn hóa giáo dục- biết đề cao các giá trị tinh thần, giá trị nghệthuật, biết phổ cập hóa các giá trị nghệ thuật. Ở ta hiện nay, đây vẫn làlãnh vực còn rất nhiều bất cập.Ba, không thể đòi hỏi các gallery phải làm công việc “giáo dục thẩmmỹ” cho đại chúng hoặc thúc đẩy sự phát triển của cả nền mỹ thuật..Đây cũng là một ảo tưởng. Các hoạt động triển lãm, tuyên truyền củacác gallery là chỉ nhằm mục đích tiếp thị. Cần phải thấy, trong nhiềunăm qua, các hoạt động này, thực tế, chỉ gieo rắc ảo tưởng và ngộ nhậnmà thôi. Vấn đề ở đây, là phải quan tâm đến tính hiệu quả của hoạtđộng phê bình. cần tạo ra một môi trường dân chủ và sự thuận lợi dànhcho phê bình . Ở ta hiện nay, đây cũng là lãnh vực còn rất nhiều bất cập.Nói tóm lại, hệ thống gallery ở Việt Nam, đang hoạt động trên một mặtbằng còn khá“hoang sơ”. Và với phương thức còn hết sức “cầu âu”,,thậm chí “chụp giật”. Điều đáng bàn luận h ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Gallery chỉ là... gallery Gallery chỉ là... galleryGallery, đơn giản, chỉ là một đơn vị kinh doanh. Sự tồn tại của nó, cănbản, chịu sự chi phối của qui luật thị trường. Còn người mua tranhtượng gallery còn sống được, bằng không, gallery “chết chắc”! Sự hơnkém giữa các gallery, chủ yếu, tuỳ thuộc vào ý thức kinh doanh, trìnhđộ kinh doanh chứ không phải là trình độ cảm thụ và đánh giá nghệthuật. Họ cần nhạy cảm với chuyện khách hàng đối tượng thích và cóthể mua cái gì hơn là những phát hiện mới mẻ, độc đáo nơi các nghệ sĩv.v… Với những đặc điểm như vậy, gallery thực tế không có tác độnggì đáng kể đến sự phát triển của một nền mỹ thuật. Nó hiếm khi khíchlệ cho sự tìm tòi, sáng tạo. Các hoạt động triển lãm, tuyên truyền củanó – ở đâu cũng vậy – chỉ là “chiêng trống làm rộn ràng phiên chợ” màthôi!…Tôi cảm thấy cần phải ghi chú ngay điều này để lưu ý mấy điều :Một, cốt lõi mối quan hệ giữa gallery với các nghệ sĩ chỉ là chuyên tiềnbạc. Trong quan hệ này, không phải gallery mà chính tiền bạc mới làyếu tố tác động, chi phối nghệ sĩ. Phản ứng khác nhau thế nào là tuỳvào bản lĩnh nhân văn nơi mỗi người. Nếu như trong nhiều năm qua,hiện tượng “thương mại hóa” nghệ thuật trở thành phổ biến, thì lỗi,không do các gallery, do “kinh tế thị trường”, mà chính yếu, là do từnghọa sĩ. Rộng hơn, do thực tiển văn hóa –xã hội chúng ta “có vấn đề”…Hai, quan hệ giữa gallery với công chúng, thuần túy, chỉ là quan hệ thịtrường. Cụ thể là quan hệ “cung-cầu”. Mà ở đó, “cầu” đóng vai tròquyết định. Gallery không thể tạo ra được công chúng nghệ thuật.Gallery chỉ có thể lựa chọn khách hàng (Bằng các hoạt động tiếpthị…). Nếu như trong nhiều năm qua, phần lớn các gallery chỉ mua bánnhững tác phẩm mỹ thuật có phong cách “xa lạ”, “kém cỏi” hay, “thờithượng”, thì nguyên do chủ yếu thuộc về phía “cầu”. Và đây, cũng làmột vấn đề văn hóa-xã hội…Ba, quan hệ giữa gallery với gallery là quan hệ có “đẳng cấp”. Càngchuyên nghiệp thì sự phân định “đẳng cấp” giữa các gallery càng rạchròi. Điều này, cơ bản, tùy thuộc “thế giới khách hàng”. Có gallery chỉbán được cho khách du lịch, đối tượng bình dân; có gallery chỉ nhắmđến lớp người “ở trên”, giàu có; có gallery chỉ nhắm đến các nhà sưutập v.v… Cần phải thừa nhận sự phân hóa này là tự nhiên. Và, cần phảihết sức lưu ý rằng nó chủ yếu mang nội dung xã hội học hơn là nghệthuật. Nên nhớ: gallery có “đẳng cấp cao nhất” hiểu theo nghĩa bánđược tranh giá cao thì điều đó không có nghĩa nó ở vị trí đầu bảngtrong thế giới nghệ thuật. Ngọai trừ những tác phẩm thuộc về “di sản”có giá trị lịch sử, tác phẩm được bán giá cao, nhiều khi chỉ là cái “thờithượng” chứ chưa hẳn đã là cái “tiền phong”, có giá trị nghệ thuật. Tácphẩm nghệ thuật thực sự, nhiều khi nằm xếp xó đâu đó trong nhữnggallery hết sức bình dân (thường là như vậy). Ở Việt Nam mấy nămqua, có sự nhập nhằng về điều này. Tuy nhiên, nguyên do chủ yếukhông phải bởi các gallery “đánh tráo khái niệm” trong hoạt động tiếpthị như nhiều người đã nói, mà là, do sự bất cập-hay bất lực-của phêbình trong nước…Từ những lưu ý nêu trên, có thể kết luận:Một, không thể bàn chuyện “chống thương mại hóa” với các gallery.Đó là một ảo tưởng. Đây là trách nhiệm của cả nền văn hóa-giáo dục.Vấn đề đặt ra là, cho đến nay, chúng ta đã xây dựng được thiết chế vớinhững hoạt động gì phù hợp nhằm giành giật lại nghệ sĩ trước sự hấpdẫn, chi phối của quy luật thị trường. Ở các nước phát triển, người taluôn có những chính sách hổ trợ cho các nghệ sĩ tìm tòi, sáng tạo. Ở ta,điều này đã thực hiện được chưa?Hai, không thể bàn chuyện nâng cao chất lượng nghệ thuật trong hoạtđộng gallery, khi mà, khách hàng của các gallery chủ yếu là ngườinước ngoài, thực tế, không đòi hỏi cao về nghệ thuật, và, những ngườimới “nổi”, mua tranh với những mục đích, thường, là bên ngoài nghệthuật,. Quy luật cung-cầu chi phối tất cả. Vấn đề ở đây là, làm thế nàođể “tạo ra được” người mua tranh có khả năng cảm thụ và đánh giánghệ thuật là người trong nước. Nhưng đó, chỉ có thể là nổ lực của cảnền văn hóa giáo dục- biết đề cao các giá trị tinh thần, giá trị nghệthuật, biết phổ cập hóa các giá trị nghệ thuật. Ở ta hiện nay, đây vẫn làlãnh vực còn rất nhiều bất cập.Ba, không thể đòi hỏi các gallery phải làm công việc “giáo dục thẩmmỹ” cho đại chúng hoặc thúc đẩy sự phát triển của cả nền mỹ thuật..Đây cũng là một ảo tưởng. Các hoạt động triển lãm, tuyên truyền củacác gallery là chỉ nhằm mục đích tiếp thị. Cần phải thấy, trong nhiềunăm qua, các hoạt động này, thực tế, chỉ gieo rắc ảo tưởng và ngộ nhậnmà thôi. Vấn đề ở đây, là phải quan tâm đến tính hiệu quả của hoạtđộng phê bình. cần tạo ra một môi trường dân chủ và sự thuận lợi dànhcho phê bình . Ở ta hiện nay, đây cũng là lãnh vực còn rất nhiều bất cập.Nói tóm lại, hệ thống gallery ở Việt Nam, đang hoạt động trên một mặtbằng còn khá“hoang sơ”. Và với phương thức còn hết sức “cầu âu”,,thậm chí “chụp giật”. Điều đáng bàn luận h ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
nền mỹ thuật phê bình nghệ thuật trường phái nghệ thuật kiến thức mỹ thuật danh họa nổi tiếng mỹ thuật việt nam mỹ thuật truyền thôngTài liệu có liên quan:
-
Tranh biếm họa trào phúng của họa sỹ Pawel Kuczynski
10 trang 348 0 0 -
Tài liệu Lịch sử mỹ thuật Việt Nam
20 trang 171 4 0 -
7 trang 88 0 0
-
10 trang 63 0 0
-
Sơ lược về Mỹ thuật thời Trần (1226-1400)
10 trang 62 0 0 -
Giáo trình Vẽ mỹ thuật 1: Vẽ bút sắt - Trần Văn Tâm
46 trang 61 1 0 -
CHÂN DUNG HỌA SỸ NGUYỄN GIA TRÍ
3 trang 53 1 0 -
8 trang 51 0 0
-
TRANH GƯƠNG CUNG ĐÌNH MỸ THUẬT HUẾ
7 trang 48 0 0 -
5 trang 48 0 0
-
Chạm khắc gỗ - Nghệ thuật thổi hồn vào cội rễ
21 trang 48 0 0 -
Design trong thiết kế Mỹ thuật vì cuộc sống
9 trang 48 0 0 -
MỖI BỨC TRANH MỸ THUẬT - MỘT TẤM LÒNG
11 trang 48 0 0 -
QUANG LONG TỰ CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC ĐỘC ĐÁO
5 trang 48 0 0 -
Tìm hiểu về điêu khắc Gỗ dân gian
12 trang 47 0 0 -
ĐÔI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT MỸ THUẬT SƠN MÀI VIỆT NAM
8 trang 46 0 0 -
20 trang 45 0 0
-
5 trang 44 0 0
-
Tìm hiểu về Tranh dân gian Việt Nam: Phần 2
14 trang 43 0 0 -
CON ĐƯỜNG GỐM SỨ MỸ THUẬT-TỪ Ý TƯỞNG ĐẾN HIỆN THỰC
7 trang 43 0 0