Danh mục tài liệu

Giảm nghèo bền vững vùng đồng bằng Sông Cửu Long trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 227.75 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết Giảm nghèo bền vững vùng đồng bằng Sông Cửu Long trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nêu lên thực trạng đói nghèo vùng đồng bằng Sông Cửu Long; nguyên nhân của tình trạng nghèo, một số giải pháp giảm nghèo.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giảm nghèo bền vững vùng đồng bằng Sông Cửu Long trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóaGIẢM NGHÈO BỀN VỮNG VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬULONG TRONG QUÁ TRÌNHCÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓATCCSĐT - Dưới những tác động của hội nhập kinh tế cùng biến đổi khíhậu, vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay phải đối mặt với tỷ lệ nghèo còncao, đặc biệt ở các tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Do đó, đồng bằngsông Cửu Long phải tìm nguyên nhân và giải pháp giảm nghèo bền vững trongcông nghiệp hóa, hiện đại hóa.Thực trạng đói nghèo vùng đồng bằng sông Cửu LongNghèo và những hệ lụy của vấn đề nghèo đối với sự phát triển kinh tế xã hội đã và đang là vấn đề nổi cộm trong nhiều năm qua ở các nước. Tại cácnước đang phát triển, khi sinh kế của người nghèo còn gặp nhiều khó khăn vìvòng luẩn quẩn thu nhập - tích lũy - đói nghèo thì việc nghiên cứu, tìm kiếmnhững giải pháp nhằm giúp người nghèo định hướng được kế sinh nhai, nângcao thu nhập, giảm đói nghèo, gia tăng sự tham gia vào quá trình phát triểnchung là hết sức cần thiết.Đồng bằng sông Cửu Long là vùng nông nghiệp trọng điểm của cả nước,đóng góp của nông nghiệp trong GDP của vùng ở mức cao với tỷ trọng 39,6%cơ cấu GDP của vùng (năm 2010). Với diện tích trên 40.000 km2, chiếm 12%diện tích cả nước; dân số chiếm khoảng 20% và đóng góp khoảng 18,5% GDPcả nước; trong lĩnh vực nông nghiệp, đồng bằng sông Cửu Long đáp ứng khoảngtrên 50% sản lượng trái cây, 70% diện tích nuôi trồng thủy - hải sản và chiếm vịtrí trọng yếu trong xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực. Quá trình côngnghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn đã góp phần thay đổi diện mạocủa vùng, tỷ lệ nghèo của vùng giảm từ 20,1% năm 2004 xuống còn 8,9%(1)vào năm 2010, nhiều tỉnh có tỷ lệ nghèo thấp như Cần Thơ, Long An, VĩnhLong. Hiện vùng có tỷ lệ nghèo thấp thứ ba sau vùng Đông Nam Bộ và đồngbằng sông Hồng.Đồng bằng sông Cửu Long được mệnh danh là “túi gạo” của cả nước vàđóng góp nhiều đối với sự phát triển của nông nghiệp song hiện nay vẫn còn hơn2 triệu người nghèo trong 17 triệu dân sống ở khu vực này và thu nhập bìnhquân đầu người của vùng thấp hơn nhiều so với mức trung bình của cả nước.Năm 2013 thu nhập bình quân đầu người của vùng đạt 34,6 triệu đồng/năm (giáhiện hành).Mặc dù vùng đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ nghèo đứng thứ ba cảnước nhưng tỷ lệ nghèo của vùng vẫn còn cao, đến năm 2010 nếu tính theochuẩn nghèo mới thì tỷ lệ nghèo của vùng là 12,6%, cả nước là 14,2%. Nhiềutỉnh trong vùng có tỷ lệ nghèo khá cao như Trà Vinh 23,2%, Sóc Trăng 22,1%,Hậu Giang 17,3%(2)... Với trên 2 triệu người nghèo sống trong vùng, quá trìnhgiảm nghèo bền vững còn đặt ra cho vùng rất nhiều thách thức.Do đặc thù của vùng với mùa nước nổi kéo dài và hiện tượng ngập lũnên nhà ở của các hộ vùng đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn rất nhiều nhà tạm.Nhà kiên cố chỉ chiếm 11% tổng số hộ, nhà bán kiên cố chiếm 51,4%, nhà thiếukiên cố 20,8%, nhà tạm chiếm 16,8%. Đây cũng là vùng có tỷ lệ nhà kiên cốthấp nhất cả nước và tỷ lệ nhà tạm cao nhất cả nước. Qua đó cho thấy, người dânvùng đồng bằng sông Cửu Long còn thiếu những điều kiện sống căn bản và cònlạc hậu so với nhiều địa phương trong cả nước.Bên cạnh đó tỷ lệ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là củangười Khmer còn khá cao. Tại Trà Vinh, Sóc Trăng nơi có tỷ lệ nghèo cao nhấtvùng cũng là nơi tập trung người Khmer sinh sống. Những khác biệt về ngônngữ cộng thêm truyền thống sản xuất nông nghiệp, trình độ tay nghề thấp làmcho người Khmer rất khó chuyển đổi ngành nghề. Chính phủ đã triển khai nhiềuchương trình, đặc biệt là chương trình 135 để trợ giúp người nghèo đối với cácxã khó khăn thông qua giao đất, cấp đất, dạy nghề,… Qua đó, người Khmer ởđồng bằng sông Cửu Long được trợ giúp để nâng cao đời sống nhưng vẫn cầnduy trì trong thời gian tới để các hộ đồng bào dân tộc thiểu số có thể tiến tới tựtạo việc làm cho chính mình và thoát khỏi đói nghèo bền vững.Nguyên nhân của tình trạng nghèo vùng đồng bằng sông Cửu LongThứ nhất, do trình độ lao động còn thấp. Hiện nay, vùng đồng bằng sôngCửu Long có lực lượng lao động khá dồi dào với lực lượng lao động từ 15 tuổitrở lên của vùng năm 2012 khoảng 10.408 nghìn người, chiếm 59,8% dân số; tỷlệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc chiếm 58,7% dân số. Tỷ lệ lao độngtừ 15 tuổi trở lên đang làm việc đã qua đào tạo rất thấp, chỉ đạt 9,1%, cả nước16,6% và thấp nhất trong 6 vùng kinh tế cả nước. Những hạn chế từ chất lượnglao động đã thu hẹp cơ hội việc làm trong các ngành, nghề phi nông nghiệp.Chính vì thế, vùng đồng bằng sông Cửu Long đang rơi vào “bẫy” của phát triển,chủ yếu là khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, lao động giá rẻ để phát triểnnông nghiệp. Hoạt động chế biến nông sản chậm phát triển nên thu nhập củangười dân không cao mặc dù đây là vùng xuất khẩu nhiều nông sản nhất cả nước.Đồng thời cũng vì tay nghề còn thấp nên việc thu hút nhà đầu tư bỏ vốn vàovùng đồng bằng sông Cửu Long còn gặp nhiều khó khăn. Trong thu hút FDI thìđồng bằng sông Cửu Long hiện nay đứng thứ ba từ dưới lên, chỉ trên các vùngmiền núi phía Bắc, Tây Nguyên. Cũng vì lẽ đó, khi thiếu vắng nhà đầu tư, số laođộng dư thừa trong nông nghiệp không thể tìm kiếm việc làm, buộc phải bám trụtrong nông nghiệp với năng suất và thu nhập thấp.Số liệu cho thấy, tỷ lệ nhập học đối với các vùng nói chung và vùngđồng bằng sông Cửu Long nói riêng có đặc điểm càng lên cấp học cao hơn, sốtrẻ em bỏ học càng nhiều. Đối với bậc phổ thông trung học, vùng đồng bằngsông Cửu Long có tỷ lệ đi học đúng tuổi rất thấp, xếp vị trí thứ hai từ dưới lên,chỉ sau miền núi Tây Bắc. Như vậy, một bộ phận trẻ em, đặc biệt ở các hộ nghèođã bỏ học sớm để đi làm việc. Cơ hội giáo dục của hôm nay sẽ chứa đựng nhữngtiềm ẩn về bất bình đẳng trong phân phối thu nhập của thế hệ tương lai.Thứ hai, do quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm. Mặcdù có sự chuyển dịch về cơ cấu ngành nghề qua các năm nhưng nông nghiệphiện vẫn còn chiếm gầ ...

Tài liệu có liên quan: