Danh mục tài liệu

Giáo trình Công pháp quốc tế (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2

Số trang: 61      Loại file: pdf      Dung lượng: 1.33 MB      Lượt xem: 24      Lượt tải: 0    
Xem trước 7 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Phần 2 cuốn giáo trình gồm 5 chương sau: Luật biển quốc tế, luật ngoại giao và lãnh sự, giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế, các cơ quan tài phán quốc tế, trách nhiệm pháp lý quốc tế. Mời các bạn tham khảo giáo trình để lấy đầy đủ thông tin phục vụ học tập và nghiên cứu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình Công pháp quốc tế (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2 CHƯƠNG 7 LUẬT BIỂN QUỐC TẾ 1. KHÁI NIỆM 1.1. Định nghĩa Từ rất sớm, con người đã có các hoạt động trên biển. Trước thế kỷ XV, biển cả là môi trường phục vụ cho hàng hải, truyền đạo và thám hiểm. Con người quan niệm tài nguyên biển cả là vô tận nên không có các cuộc đấu tranh giành quyền lực trên biển. Vì vậy mà có thể nói rằng những quyền sơ khai đầu tiên trên biển chính là các quyền tự do biển cả. Từ thế kỷ XV, biển cả từ một môi trường, một phương tiện, đã trở thành đối tượng chinh phục của các quốc gia muốn mở rộng quyền lực của mình ra biển. Vấn đề càng thêm trầm trọng khi con người ý thức được rằng tài nguyên biển không phải là vô tận. Luật biển ra đời phản ánh cuộc đấu tranh giữa hai nguyên tắc lớn: tự do biển cả và chủ quyền quốc gia. Tồn tại hai học thuyết trái ngược nhau về bản chất pháp lý của luật biển: Res nullius và Res commonis. Res nullius có nghĩa biển cả là vô chủ, cho phép các quốc gia ven biển được toàn quyền hành động thiết lập chủ quyền quốc gia. Ngược lại, Res commonis với nghĩa biển cả là của chung, các quốc gia bình đẳng trong việc sử dụng biển. Cả hai học thuyết này đều không được sử dụng đầy đủ, và chúng chỉ là hai khía cạnh đối kháng nhưng tồn tại song song trong luật biển. Tuy nhiên, thời kỳ này luật biển chủ yếu tồn tại dưới dạng các quy tắc, quy phạm tập quán. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2, quá trình pháp điển hóa luật biển phát triển mạnh, thông qua ba hội nghị lớn của Liên hợp quốc vào các năm 1958, 1960 và từ 1973- 1982. Và Công ước Luật biển đã được thông qua ngày 10/12/1982 đã đánh dấu một bước phát triển mới của luật biển quốc tế. Công ước Luật biển 1982 được coi như bản hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế. Luật biển quốc tế là tổng thể các nguyên tắc và quy phạm pháp lý, được các chủ thể luật quốc tế tham gia thiết lập trên cơ sở thỏa thuận hoặc thông qua thực tiễn có tính tập quán, nhằm điều chỉnh các quan hệ nảy sinh giữa các chủ thể trong quá trình khai thác, sử dụng và quản lý biển. 1.2. Các nguyên tắc của Luật biển quốc tế 1.2.1. Nguyên tắc tự do biển cả Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia. Nguyên tắc này không cho phép bất cứ quốc gia nào được quyền áp đặt hợp pháp một bộ phận của biển cả thuộc chủ quyền của mình. Mỗi quốc gia khi thực hiện quyền tự do biển cả phải thừa nhận và tính đến quyền tự do biển cả của các quốc gia khác. Các quyền tự do biển cả bao gồm: - Tự do hàng hải. - Tự do hàng không. - Tự do đặt dây cấp hoặc ống dẫn ngầm. - Tự do xây dựng các đảo nhân tạo hoặc các thiết bị khác được luật quốc tế cho phép. 72 - Tự do đánh bắt hải sản. - Tự do nghiên cứu khoa học. Nguyên tắc này không chỉ áp dụng cho biển cả mà còn trong các vùng biển đặc thù của quốc gia ven biển. Ở đó, nguyên tắc này được áp dụng hạn chế hơn. 1.2.2. Nguyên tắc đất thống trị biển Nguyên tắc đất thống trị biển với nội dung là cho phép quốc gia mở rộng chủ quyền của mình ra hướng biển. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc này không phải là vô hạn. Các quốc gia không thể mở rộng mãi thẩm quyền của mình ra biển hoặc đơn phương yêu sách những vùng biển rộng lớn hơn không phù hợp với luật quốc tế. Bên cạnh đó, nó còn thể hiện ở nguyên tắc phân định biển. Đó là các quốc gia không được sửa chữa lại tự nhiên mà chỉ được hưởng phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ của nước mình ra biển. 1.2.3. Nguyên tắc di sản chung của loài người Vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm ngoài giới hạn quyền tài phán quốc gia (được gọi là Vùng), cũng như các tài nguyên ở đó, là khối tài sản không thể phân chia, thuộc sở hữu chung của cộng đồng quốc tế. Đây chính là di sản chung của loài người. 1.2.4. Nguyên tắc công bằng Nguyên tắc này được thể hiện ở các khía cạnh sau: - Không đặt biển cả dưới chủ quyền riêng biệt của bất kỳ quốc gia nào. - Vùng và tài nguyên của vùng có chế độ pháp lý là di sản chung của loài người. - Thừa nhận và thực hiện quyền của các quốc gia không có biển hoặc bất lợi về địa lý được sử dụng biển cả như các quốc gia có biển, cũng như được khai thác các tài nguyên của biển ở những mức độ nhất định. - Trong phân định biển, nguyên tắc công bằng được sử dụng để đảm bảo quyền lợi đúng đắn, công bằng và hợp lý cho các quốc gia liên quan, có tính đến các hoàn cảnh hữu quan. 2. CÁC VÙNG BIỂN THUỘC CHỦ QUYỀN QUỐC GIA 2.1. Nội thủy 2.1.1. Khái niệm Theo quy định tại khoản 1 điều 8 Công ước Luật Biển 1982 thì nội thủy là vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Trong quy định về nội thủy, cần lưu ý: Thứ nhất, các quốc gia quần đảo có quyền vạch ra các đường cơ sở thẳng của quần đảo bằng cách nối liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá lúc chìm lúc nổi của quần đảo. Vùng nước trong đường cơ sở thẳng này là vùng nước quần đảo và có chế độ pháp lý đi qua không gây hại. Thứ hai, khoản 2 điều 8 Công ước Luật Biển 1982 quy định, khi một đường cơ sở thẳng được vạch ra theo đúng phương pháp quy định tại Công ước gộp vào nội thủy các vùng nước trước đó chưa được coi là nội thủy thì quyền đi qua không gây hại vẫn được áp dụng ở các vùng nước đó. Đây là quy định nhằm đảm bảo cho quyền tự do biển cả của tàu 73 thuyền, nhất là đối với những vùng nước có đường hàng hải quốc tế đi qua mà trước đó chúng không thuộc nội thủy. Thứ ba, vùng nước lịch sử là các vùng nước tuy không phải là nội thủy nhưng do tính chất lịch sử của mình mà chúng được hưởng quy chế nội thủy. Tuy vịnh và vùng nước là các khái niệm khác nhau về mặt địa lý, bề rộng, nhưng do các vùng nước được ...