![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://thuvienso.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
GỐM VIỆT NAM 4000 NĂM
Số trang: 9
Loại file: docx
Dung lượng: 43.22 KB
Lượt xem: 18
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Gốm thời hùng vương 2000 năm trước công nguyên
Dân tộc Việt Nam là một trong những dân tộc phát triển sớm của nhân loại. Lịch sử hơn bốn ngàn năm từ thời vương quốc Văn Lang cổ đại, có nền văn minh đồ đồng Đông Sơn rực rỡ. Mỹ thuật trang trí đồ đồng là đoạn nối tiếp từ nghệ thuật đồ gốm được phát triển song hành phục vụ đời sống người Việt.
Hai ngàn năm trước công nguyên, là thời kỳ người Việt chưa có quan hệ với phương Bắc. Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Thời Thành...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
GỐM VIỆT NAM 4000 NĂM GỐM VIỆT NAM 4000 NĂM Gốm thời hùng vương 2000 năm trước công nguyên Dân tộc Việt Nam là một trong những dân tộc phát triển sớm của nhân loại. Lịch sử hơn bốn ngàn năm từ thời vương quốc Văn Lang cổ đại, có nền văn minh đồ đồng Đông Sơn rực rỡ. Mỹ thuật trang trí đồ đồng là đoạn nối tiếp từ nghệ thuật đồ gốm được phát triển song hành phục vụ đời sống người Việt. Hai ngàn năm trước công nguyên, là thời kỳ người Việt chưa có quan hệ với phương Bắc. Đại Vi ệt sử ký toàn thư viết: “Thời Thành vương nhà Chu (1063 – 1026 TCN) nước Việt ta lần đầu sang thăm nhà Chu, xưng là Việt Thường thị hiến chim trĩ. Chu Công nói: “Chính lệnh không ban đến thì người quân tử không coi người ta là bề tôi của mình”. Rồi sai làm xe chỉ nam đưa sứ giả về” (TT/T1/137). ý nói nước ta là ngoài cõi nên không quan hệ. Cho đến thời kỳ Tri ệu Vũ Đế thế kỷ II TCN Nam Vi ệt độc l ập ngang hàng với nhà Hán và bước đầu có bang giao với Hán. Thời điểm lịch sử phân định đã rõ, nhưng mọi thư tịch cổ đã bị âm mưu đồng hoá sau này đã huỷ diệt. Thời Hùng vương, Âu Lạc Nam Việt chỉ còn là huyền sử, không còn hi ện di ện về kiến trúc, các vật thể vật chất để tìm hiểu, so sánh với nhà Hán. Thời Bắc thuộc những di chỉ đào được đồ gốm, thường được nhốt chung ý thức hệ: “đồ Hán hoặc Hán Việt” là không thoả đáng, vì đấy là gốm Việt cổ thế kỷ XX phát hi ện văn hoá Đông Sơn thời Hùng vương. Năm 1980 việt cổ, với hơn một ngàn hiện vật, từ ngọc, ngà, vũ khí, áo giáp, trang phục, đồ gốm, đồ sắt, đồ đồng, vải vóc… trên 90% đồ Việt là một bằng chứng lịch sử trung thực để so sánh với đồ Hán ba thế kỷ trước công nguyên. Đồ gốm ở mộ Văn đế hi ện di ện nhiều hình thức, trang trí mỹ thuật, kỹ thuật cao phục vụ cung đình có phong cách Việt chưa được biết tới. Những đồ gốm Việt cao cấp có phong cách dân tộc truyền thống từ Đông Sơn, ngược lên nối với Phùng Nguyên rất cụ thể về kiểu dáng, hoa văn. - Phong cách đồ gốm Phùng Nguyên khoảng 2000 năm trước công nguyên ở di chỉ Phùng Nguyên bao gồm một vùng rộng lớn thuộc lưu vực sông Hồng, từ Tràng Kênh Hải Phòng, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh với hàng vạn mảnh gốm, hàng trăm di vật gốm có thể gắn chắp được, đã làm rõ phong cách trang trí mỹ thuật. Gốm Phùng Nguyên đã được chế tạo bằng bàn xoay, độ nung cao từ 700 – 800 độ, mầu đỏ nhạt, xám. Gốm có đặc điểm xương mịn. Hoa văn trang trí rất phong phú, đa dạng, văn chải mịn, đường vạch song song, cắt chéo ô trám hay uốn lượn hình sóng nước, kết hợp với các đường chấm dải, cùng với đường hoa văn, khắc vạch, tạo thành đồ hình đối xứng sinh động. Những đặc điểm trang trí này ta có thể thấy rõ nét trong đồ gốm ở mộ Văn đế: các ang gốm mang ký hiệu B111 cao 7,2cm, đường kính 10,5cm; B112; B113 màu xám, màu nâu đỏ vàng. Cùng với các mô típ trang trí hình chữ S, tam giác nhọn, các đường ngang, dọc, đơn hoặc kép đuổi nhau, tạo thành các dải bằng vòng quanh đồ gốm. Những dải băng trang trí quen thuộc này là mỹ thuật Đông Sơn. Nhiều đồ hình trang trí khắc vạch, chấm dải được kết hợp tạo ra những trang trí phức hợp nhưng không bị rối, giữ được cân đối, hài hoà của trang trí gốm Phùng Nguyên. Các kiểu dáng gốm - Gốm Phùng Nguyên và Đồng Đậu phát triển mở đầu thời kỳ văn hoá trên đồng bằng sông Hồng Việt cổ; có niên đại C14 ở Đồng Chỗ: 3800 60 năm và Đồng Đậu lớp cuối 3330 100 năm (các nền văn hoá Việt Nam – Hoàng Xuân Chính, NXB Lao đ ộng 2005/ trang 196). Các loại nồi vò miệng loe, bong nở, đáy tròn, có loại miệng thẳng dầy, hoa văn thừng trên miệng, chân đế cao của Phùng Nguyên. Ta có thể gặp ở mộ Văn đế, ký hiệu G20 (nồi có chân cao 25cm mi ệng rộng 23cm bụng nở, các ký hiệu C9; C60 (miệng thẳng dầy). - Gốm Hoa Lộc (Hậu Lộc, Nga Sơn, Thanh Hoá) được phát triển đặc sắc nhiều phong cách, từ khắc vạch, in, ấn lõm, trổ thủng, khắc chìm, đắp nổi, tạo ra các hình trang trí phức tạp như: hình giọt nước, hình chữ S, vẩy cá, vòng tròn chấm, tâm, hình bông hoa, tam giác, chữ S nằm ngang, vạch ngắn kép có chấm hai đầu, cong dấu hỏi, hình con tôm, cánh nhạn, răng sói, vặn thong, tổ ong, sóng nước. Hình thức đồ vật, kiểu dáng rất phong phú, độc đáo. Nhiều nhất là đồ đun nấu, nồi bát, bình chậu, âu. Những kiểu đó miệng khum vào vai, có 4 núm nhọn, có loại vung khum cao. Phát hiện con lăn và dấu bằng gốm, các loại hình, trang trí đều tìm thấy ở đồ gốm mộ Văn đế. - Gốm Thiệu Dương độ nung cao, mầu xám, hoa văn trang trí văn chảo, hình xoáy ốc, sóng nước, hình số 8, bện thừng. Gốm Rú Trăn (Nam Đàn, Nghệ An). Phát hiện năm 1975: nồi vò, bình, bát, bình gốm mi ệng loe, lọ cao cổ ngắn… hình thức hoa văn như đã trình bầy kể ở trên: khắc vạch, văn thừng, chấm dải, răng sói… Tất cả những phong cách, đồ hình trang trí này đều đã xuất hiện trong đồ gốm của mộ Triệu Văn Đế, nhưng được làm tinh mỹ hơn, chau chuốt hơn. Đặc biệt là các đồ gốm này hoàn toàn còn nguyên vẹn với giá trị lịch sử và thẩm mỹ cao. Sá ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
GỐM VIỆT NAM 4000 NĂM GỐM VIỆT NAM 4000 NĂM Gốm thời hùng vương 2000 năm trước công nguyên Dân tộc Việt Nam là một trong những dân tộc phát triển sớm của nhân loại. Lịch sử hơn bốn ngàn năm từ thời vương quốc Văn Lang cổ đại, có nền văn minh đồ đồng Đông Sơn rực rỡ. Mỹ thuật trang trí đồ đồng là đoạn nối tiếp từ nghệ thuật đồ gốm được phát triển song hành phục vụ đời sống người Việt. Hai ngàn năm trước công nguyên, là thời kỳ người Việt chưa có quan hệ với phương Bắc. Đại Vi ệt sử ký toàn thư viết: “Thời Thành vương nhà Chu (1063 – 1026 TCN) nước Việt ta lần đầu sang thăm nhà Chu, xưng là Việt Thường thị hiến chim trĩ. Chu Công nói: “Chính lệnh không ban đến thì người quân tử không coi người ta là bề tôi của mình”. Rồi sai làm xe chỉ nam đưa sứ giả về” (TT/T1/137). ý nói nước ta là ngoài cõi nên không quan hệ. Cho đến thời kỳ Tri ệu Vũ Đế thế kỷ II TCN Nam Vi ệt độc l ập ngang hàng với nhà Hán và bước đầu có bang giao với Hán. Thời điểm lịch sử phân định đã rõ, nhưng mọi thư tịch cổ đã bị âm mưu đồng hoá sau này đã huỷ diệt. Thời Hùng vương, Âu Lạc Nam Việt chỉ còn là huyền sử, không còn hi ện di ện về kiến trúc, các vật thể vật chất để tìm hiểu, so sánh với nhà Hán. Thời Bắc thuộc những di chỉ đào được đồ gốm, thường được nhốt chung ý thức hệ: “đồ Hán hoặc Hán Việt” là không thoả đáng, vì đấy là gốm Việt cổ thế kỷ XX phát hi ện văn hoá Đông Sơn thời Hùng vương. Năm 1980 việt cổ, với hơn một ngàn hiện vật, từ ngọc, ngà, vũ khí, áo giáp, trang phục, đồ gốm, đồ sắt, đồ đồng, vải vóc… trên 90% đồ Việt là một bằng chứng lịch sử trung thực để so sánh với đồ Hán ba thế kỷ trước công nguyên. Đồ gốm ở mộ Văn đế hi ện di ện nhiều hình thức, trang trí mỹ thuật, kỹ thuật cao phục vụ cung đình có phong cách Việt chưa được biết tới. Những đồ gốm Việt cao cấp có phong cách dân tộc truyền thống từ Đông Sơn, ngược lên nối với Phùng Nguyên rất cụ thể về kiểu dáng, hoa văn. - Phong cách đồ gốm Phùng Nguyên khoảng 2000 năm trước công nguyên ở di chỉ Phùng Nguyên bao gồm một vùng rộng lớn thuộc lưu vực sông Hồng, từ Tràng Kênh Hải Phòng, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh với hàng vạn mảnh gốm, hàng trăm di vật gốm có thể gắn chắp được, đã làm rõ phong cách trang trí mỹ thuật. Gốm Phùng Nguyên đã được chế tạo bằng bàn xoay, độ nung cao từ 700 – 800 độ, mầu đỏ nhạt, xám. Gốm có đặc điểm xương mịn. Hoa văn trang trí rất phong phú, đa dạng, văn chải mịn, đường vạch song song, cắt chéo ô trám hay uốn lượn hình sóng nước, kết hợp với các đường chấm dải, cùng với đường hoa văn, khắc vạch, tạo thành đồ hình đối xứng sinh động. Những đặc điểm trang trí này ta có thể thấy rõ nét trong đồ gốm ở mộ Văn đế: các ang gốm mang ký hiệu B111 cao 7,2cm, đường kính 10,5cm; B112; B113 màu xám, màu nâu đỏ vàng. Cùng với các mô típ trang trí hình chữ S, tam giác nhọn, các đường ngang, dọc, đơn hoặc kép đuổi nhau, tạo thành các dải bằng vòng quanh đồ gốm. Những dải băng trang trí quen thuộc này là mỹ thuật Đông Sơn. Nhiều đồ hình trang trí khắc vạch, chấm dải được kết hợp tạo ra những trang trí phức hợp nhưng không bị rối, giữ được cân đối, hài hoà của trang trí gốm Phùng Nguyên. Các kiểu dáng gốm - Gốm Phùng Nguyên và Đồng Đậu phát triển mở đầu thời kỳ văn hoá trên đồng bằng sông Hồng Việt cổ; có niên đại C14 ở Đồng Chỗ: 3800 60 năm và Đồng Đậu lớp cuối 3330 100 năm (các nền văn hoá Việt Nam – Hoàng Xuân Chính, NXB Lao đ ộng 2005/ trang 196). Các loại nồi vò miệng loe, bong nở, đáy tròn, có loại miệng thẳng dầy, hoa văn thừng trên miệng, chân đế cao của Phùng Nguyên. Ta có thể gặp ở mộ Văn đế, ký hiệu G20 (nồi có chân cao 25cm mi ệng rộng 23cm bụng nở, các ký hiệu C9; C60 (miệng thẳng dầy). - Gốm Hoa Lộc (Hậu Lộc, Nga Sơn, Thanh Hoá) được phát triển đặc sắc nhiều phong cách, từ khắc vạch, in, ấn lõm, trổ thủng, khắc chìm, đắp nổi, tạo ra các hình trang trí phức tạp như: hình giọt nước, hình chữ S, vẩy cá, vòng tròn chấm, tâm, hình bông hoa, tam giác, chữ S nằm ngang, vạch ngắn kép có chấm hai đầu, cong dấu hỏi, hình con tôm, cánh nhạn, răng sói, vặn thong, tổ ong, sóng nước. Hình thức đồ vật, kiểu dáng rất phong phú, độc đáo. Nhiều nhất là đồ đun nấu, nồi bát, bình chậu, âu. Những kiểu đó miệng khum vào vai, có 4 núm nhọn, có loại vung khum cao. Phát hiện con lăn và dấu bằng gốm, các loại hình, trang trí đều tìm thấy ở đồ gốm mộ Văn đế. - Gốm Thiệu Dương độ nung cao, mầu xám, hoa văn trang trí văn chảo, hình xoáy ốc, sóng nước, hình số 8, bện thừng. Gốm Rú Trăn (Nam Đàn, Nghệ An). Phát hiện năm 1975: nồi vò, bình, bát, bình gốm mi ệng loe, lọ cao cổ ngắn… hình thức hoa văn như đã trình bầy kể ở trên: khắc vạch, văn thừng, chấm dải, răng sói… Tất cả những phong cách, đồ hình trang trí này đều đã xuất hiện trong đồ gốm của mộ Triệu Văn Đế, nhưng được làm tinh mỹ hơn, chau chuốt hơn. Đặc biệt là các đồ gốm này hoàn toàn còn nguyên vẹn với giá trị lịch sử và thẩm mỹ cao. Sá ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
phê bình nghệ thuật trường phái nghệ thuật kiến thức mỹ thuật danh họa nổi tiếng mỹ thuật việt nam mỹ thuật truyền thôngTài liệu có liên quan:
-
Tranh biếm họa trào phúng của họa sỹ Pawel Kuczynski
10 trang 348 0 0 -
Tài liệu Lịch sử mỹ thuật Việt Nam
20 trang 171 4 0 -
7 trang 88 0 0
-
10 trang 63 0 0
-
Sơ lược về Mỹ thuật thời Trần (1226-1400)
10 trang 62 0 0 -
Giáo trình Vẽ mỹ thuật 1: Vẽ bút sắt - Trần Văn Tâm
46 trang 61 1 0 -
CHÂN DUNG HỌA SỸ NGUYỄN GIA TRÍ
3 trang 53 1 0 -
8 trang 51 0 0
-
TRANH GƯƠNG CUNG ĐÌNH MỸ THUẬT HUẾ
7 trang 48 0 0 -
5 trang 48 0 0
-
Chạm khắc gỗ - Nghệ thuật thổi hồn vào cội rễ
21 trang 48 0 0 -
MỖI BỨC TRANH MỸ THUẬT - MỘT TẤM LÒNG
11 trang 48 0 0 -
Design trong thiết kế Mỹ thuật vì cuộc sống
9 trang 48 0 0 -
QUANG LONG TỰ CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC ĐỘC ĐÁO
5 trang 48 0 0 -
Tìm hiểu về điêu khắc Gỗ dân gian
12 trang 47 0 0 -
ĐÔI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT MỸ THUẬT SƠN MÀI VIỆT NAM
8 trang 46 0 0 -
20 trang 45 0 0
-
5 trang 44 0 0
-
Tìm hiểu về Tranh dân gian Việt Nam: Phần 2
14 trang 43 0 0 -
Đẹp ngỡ ngàng vườn tượng Phật trên đất nước Lào
8 trang 43 0 0