Hồ Trúc Bạch với Hồ Tây và Đường Cổ Ngư
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 166.61 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đường Thanh Niên xưa vốn có tên là Cố Ngự (nghĩa là giữ cho vững), lâu dần mới gọi chệch ra thành Cổ Ngư. Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch nguyên chỉ là một. Từ Thế kỷ XVII, người dân đánh cá quanh vùng đắp con bờ nhỏ từ Yên Hoa xuống Yên Ninh cho khỏi đi vòng, rồi sóng vỗ, thời gian xô lở, năm nào cũng phải đắp lại cho vững, thành ra con đường có tên Đê Cố Ngự (nghĩa là giữ cho vững). Người Pháp cai trị Hà Nội, vốn quen đọc chữ Việt cũng không...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hồ Trúc Bạch với Hồ Tây và Đường Cổ NgưHồ Trúc Bạch với Hồ Tây và Đường Cổ NgưĐường Thanh Niên xưa vốn có tên là Cố Ngự (nghĩa là giữ cho vững), lâu dần mớigọi chệch ra thành Cổ Ngư. Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch nguyên chỉ là một. Từ Thế kỷXVII, người dân đánh cá quanh vùng đắp con bờ nhỏ từ Yên Hoa xuống Yên Ninhcho khỏi đi vòng, rồi sóng vỗ, thời gian xô lở, năm nào cũng phải đắp lại cho vững,thành ra con đường có tên Đê Cố Ngự (nghĩa là giữ cho vững).Người Pháp cai trị Hà Nội, vốn quen đọc chữ Việt cũng không có dấu giọng, lâu dầnchệch ra thành Đường Cổ Ngư. Khoảng đầu những năm 1960, Đường Cổ Ngư được mởrộng, Bác Hồ trực tiếp đặt tên cho nó là Đường Thanh Niên.Đường Thanh Niên ngày nayĐó là con tàu xanh không bao giờ đắm, là một bờ của Hồ Trúc Bạch thơ mộng, trữ tìnhđã chứng kiến sự có mặt của nhiều thế hệ người Hà Nội. Góc hồ này, nguyên có mộthành cung của Chúa Trịnh Doanh, cung đó sau thành nơi an trí những cung nữ có tộihoặc về già. Họ trồng dâu chăn tằm và tự dệt lụa, thứ lụa trắng ngà, mềm, mỏng, cực đẹp,gọi là lụa Làng Trúc, và cái tên Trúc Bạch ra đời, mảnh Hồ Tây ngăn ra cũng mang luôntên ấy: Hồ Trúc Bạch. Dâu bể là lẽ thường tình, hàng nghìn năm, hàng trăm năm, hai conhồ này ngày nay đã bị thu hẹp đi nhiều do lấn chiếm, có lẽ một phần cũng do lòng ngườibị hẹp đi hơn trước chăng?Thời Chúa Trịnh, Hồ Trúc Bạch còn trồng sen, thơm nức một vùng. Làng Ngũ Xã do dân5 làng có nghề đúc đồng của các địa phương tụ hội về đây lập nghiệp, ngày nào lửa lòcũng nghi ngút, xen kẽ với hương hoa sen, còn được ghi trong bài phú lừng danh mộtthời của Nguyễn Huy Lượng làm năm 1801 với câu:Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi oanh ghẹo hai phường dệt gấmSen vũng nọ nảy tiền xanh lác đác, lửa đóm ghen năm xã gây lò…(Tụng Tây Hồ phú)Một bài phú chỉ độc vận: vần Hồ. Và người làm phú đã tài hoa, sau, Phạm Thái, nhà thơtrữ tình cũng tài hoa không kém, viết bài phú: Chiến Tụng Tây Hồ, cũng vẫn vần ấy, có ýphản bác người trước và cũng là phản đối nhà Tây Sơn… đã trở thành một giai thoại vănchương của kẻ sỹ Bắc Hà lừng danh thiên hạ.Hồ Trúc Bạch không rộng, đứng bên này vẫn nhìn thấp thoáng bóng người bên bờ kia.Trên Đường Thanh Niên lộng gió và tràn trăng, ta mới cảm nhận được gương nước sónglăn tăn kia là quý giá như thế nào…Thật sung sướng khi đứng trên Đường Thanh Niên nhìn ra phía Tây, gương hồ mù sươngtrong hoàng hôn lộng gió, và nhìn về phía Đông, ta đón gió Hồ Trúc Bạch lồng lộng mátrượi thịt da, tung mớ tóc phàm trần bụi bặm. Hàng cây hoa ban tím đã nở nhiều mùa, dãycây xoan tây cứ dâng những đĩa xôi gấc cho mùa Hè nồng thắm. Hồ Trúc Bạch phải trởvề với thanh khiết, thoáng đãng của nguyên hình nó từ bao đời.Chắc ta sẽ có dịp đi quanh Hồ Trúc Bạch, rẽ vào Bán đảo Ngũ Xã, thăm ngôi chùa cổ,viếng tượng Phật Di Đà, âm vang trong ta những câu phú tài tình, con được nâng chân tamột vòng, không vướng những cái tham lam, những cái lố lăng, những cái ô nhiễm, ônhiễm cả mặt hồ, ô nhiễm cả tâm hồn con người, ô nhiễm cảthiên nhiên và lịch sử… nhưnhững ngày qua Hồ Trúc Bạch phải chịu đựng. Chỉ riêng một chi tiết Hồ Trúc Bạch từngbắt được tên giặc lái máy bay ném bom, nổi lềnh bềnh, đã đáng được giữ gìn như một ditích thiêng liêng, chứ chưa nói gì nó đã tồn tại hàng nghìn năm với Đông Đô, ThăngLong, Hà Nội, với hồn người bao thế hệ, để có còn nhắc lại cho muôn đời sau một HàNội tài hoa tươi đẹp…Xung quanh Hồ Trúc Bạch có một số công trình kiến trúc, di tích lịch sử, văn hóa nổitiếng: Góc hồ phía Tây là Đền Quán Thánh – Quán thờ Thánh Trấn Vũ, một nhân vậthình tượng Việt Nam, ông Thánh đã giúp An Dương Vương trừ ma quấy phá khi xâyThành Cổ Loa và cũng là một nhân vật thần thoại Trung Quốc là ông Thánh trấn giữphương Bắc. Đền Quán Thánh được xây dựng từ đời Vua Lý Thái Tổ (1010-1028). Đặcbiệt, đền có pho tượng Thánh Trấn Vũ bằng đồng đen cao 3m96, nặng 3.600kg, chu vi là3m50 do những người thợ Làng Ngũ Xã đúc năm 1677. Cụ Trùm Trọng, người thợ cảđúc tượng Thánh Trấn Vũ cũng được đúc tượng thờ tại đền. Phía Đông hồ có Chùa ChâuLong, hay Châu Long Tự, gắn bó với vị Công chúa nhà Trần tên là Khiết Cô.Chùa tọa lạc trên một quả núi có hình dáng con rồng nằm nhả ngọc nên chùa mang tênChâu Long, được khởi dựng từ thời Lý – Trần, đến Thế kỷ thứ XIX được xây dựng lạinhư ngày nay. Chùa Châu Long là một công trình điêu khắc có giá trị nổi tiếng đã đượcNhà nước xếp hạng Di tích văn hóa nghệ thuật. Phía Bắc hồ là Chùa Thần Quang, chùacó pho tượng Phật Adiđà bằng đồng đúc liền khối lớn nhất Việt Nam, khởi đúc năm 1949đến năm 1952 thì hoàn thành. Tượng cao 3m9, chu vi 11m, nặng 14 tấn là một công trìnhnghệ thuật vô cùng quý giá không chỉ ở Việt Nam mà còn của Thế giới.Nằm gọn trong lòng Hồ Trúc Bạch nước trong xanh, phẳng lặng, êm ả có hai đảo, đảolớn ở mé hồ phía Đông gọi là Đảo Ngũ Xã – thường gọi là Làng Ngũ Xã. Các cụ tronglàng thường kể về lịch sử làng mình như sau: Vào khoảng đầu Thế kỷ XVII, có 5 ng ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hồ Trúc Bạch với Hồ Tây và Đường Cổ NgưHồ Trúc Bạch với Hồ Tây và Đường Cổ NgưĐường Thanh Niên xưa vốn có tên là Cố Ngự (nghĩa là giữ cho vững), lâu dần mớigọi chệch ra thành Cổ Ngư. Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch nguyên chỉ là một. Từ Thế kỷXVII, người dân đánh cá quanh vùng đắp con bờ nhỏ từ Yên Hoa xuống Yên Ninhcho khỏi đi vòng, rồi sóng vỗ, thời gian xô lở, năm nào cũng phải đắp lại cho vững,thành ra con đường có tên Đê Cố Ngự (nghĩa là giữ cho vững).Người Pháp cai trị Hà Nội, vốn quen đọc chữ Việt cũng không có dấu giọng, lâu dầnchệch ra thành Đường Cổ Ngư. Khoảng đầu những năm 1960, Đường Cổ Ngư được mởrộng, Bác Hồ trực tiếp đặt tên cho nó là Đường Thanh Niên.Đường Thanh Niên ngày nayĐó là con tàu xanh không bao giờ đắm, là một bờ của Hồ Trúc Bạch thơ mộng, trữ tìnhđã chứng kiến sự có mặt của nhiều thế hệ người Hà Nội. Góc hồ này, nguyên có mộthành cung của Chúa Trịnh Doanh, cung đó sau thành nơi an trí những cung nữ có tộihoặc về già. Họ trồng dâu chăn tằm và tự dệt lụa, thứ lụa trắng ngà, mềm, mỏng, cực đẹp,gọi là lụa Làng Trúc, và cái tên Trúc Bạch ra đời, mảnh Hồ Tây ngăn ra cũng mang luôntên ấy: Hồ Trúc Bạch. Dâu bể là lẽ thường tình, hàng nghìn năm, hàng trăm năm, hai conhồ này ngày nay đã bị thu hẹp đi nhiều do lấn chiếm, có lẽ một phần cũng do lòng ngườibị hẹp đi hơn trước chăng?Thời Chúa Trịnh, Hồ Trúc Bạch còn trồng sen, thơm nức một vùng. Làng Ngũ Xã do dân5 làng có nghề đúc đồng của các địa phương tụ hội về đây lập nghiệp, ngày nào lửa lòcũng nghi ngút, xen kẽ với hương hoa sen, còn được ghi trong bài phú lừng danh mộtthời của Nguyễn Huy Lượng làm năm 1801 với câu:Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi oanh ghẹo hai phường dệt gấmSen vũng nọ nảy tiền xanh lác đác, lửa đóm ghen năm xã gây lò…(Tụng Tây Hồ phú)Một bài phú chỉ độc vận: vần Hồ. Và người làm phú đã tài hoa, sau, Phạm Thái, nhà thơtrữ tình cũng tài hoa không kém, viết bài phú: Chiến Tụng Tây Hồ, cũng vẫn vần ấy, có ýphản bác người trước và cũng là phản đối nhà Tây Sơn… đã trở thành một giai thoại vănchương của kẻ sỹ Bắc Hà lừng danh thiên hạ.Hồ Trúc Bạch không rộng, đứng bên này vẫn nhìn thấp thoáng bóng người bên bờ kia.Trên Đường Thanh Niên lộng gió và tràn trăng, ta mới cảm nhận được gương nước sónglăn tăn kia là quý giá như thế nào…Thật sung sướng khi đứng trên Đường Thanh Niên nhìn ra phía Tây, gương hồ mù sươngtrong hoàng hôn lộng gió, và nhìn về phía Đông, ta đón gió Hồ Trúc Bạch lồng lộng mátrượi thịt da, tung mớ tóc phàm trần bụi bặm. Hàng cây hoa ban tím đã nở nhiều mùa, dãycây xoan tây cứ dâng những đĩa xôi gấc cho mùa Hè nồng thắm. Hồ Trúc Bạch phải trởvề với thanh khiết, thoáng đãng của nguyên hình nó từ bao đời.Chắc ta sẽ có dịp đi quanh Hồ Trúc Bạch, rẽ vào Bán đảo Ngũ Xã, thăm ngôi chùa cổ,viếng tượng Phật Di Đà, âm vang trong ta những câu phú tài tình, con được nâng chân tamột vòng, không vướng những cái tham lam, những cái lố lăng, những cái ô nhiễm, ônhiễm cả mặt hồ, ô nhiễm cả tâm hồn con người, ô nhiễm cảthiên nhiên và lịch sử… nhưnhững ngày qua Hồ Trúc Bạch phải chịu đựng. Chỉ riêng một chi tiết Hồ Trúc Bạch từngbắt được tên giặc lái máy bay ném bom, nổi lềnh bềnh, đã đáng được giữ gìn như một ditích thiêng liêng, chứ chưa nói gì nó đã tồn tại hàng nghìn năm với Đông Đô, ThăngLong, Hà Nội, với hồn người bao thế hệ, để có còn nhắc lại cho muôn đời sau một HàNội tài hoa tươi đẹp…Xung quanh Hồ Trúc Bạch có một số công trình kiến trúc, di tích lịch sử, văn hóa nổitiếng: Góc hồ phía Tây là Đền Quán Thánh – Quán thờ Thánh Trấn Vũ, một nhân vậthình tượng Việt Nam, ông Thánh đã giúp An Dương Vương trừ ma quấy phá khi xâyThành Cổ Loa và cũng là một nhân vật thần thoại Trung Quốc là ông Thánh trấn giữphương Bắc. Đền Quán Thánh được xây dựng từ đời Vua Lý Thái Tổ (1010-1028). Đặcbiệt, đền có pho tượng Thánh Trấn Vũ bằng đồng đen cao 3m96, nặng 3.600kg, chu vi là3m50 do những người thợ Làng Ngũ Xã đúc năm 1677. Cụ Trùm Trọng, người thợ cảđúc tượng Thánh Trấn Vũ cũng được đúc tượng thờ tại đền. Phía Đông hồ có Chùa ChâuLong, hay Châu Long Tự, gắn bó với vị Công chúa nhà Trần tên là Khiết Cô.Chùa tọa lạc trên một quả núi có hình dáng con rồng nằm nhả ngọc nên chùa mang tênChâu Long, được khởi dựng từ thời Lý – Trần, đến Thế kỷ thứ XIX được xây dựng lạinhư ngày nay. Chùa Châu Long là một công trình điêu khắc có giá trị nổi tiếng đã đượcNhà nước xếp hạng Di tích văn hóa nghệ thuật. Phía Bắc hồ là Chùa Thần Quang, chùacó pho tượng Phật Adiđà bằng đồng đúc liền khối lớn nhất Việt Nam, khởi đúc năm 1949đến năm 1952 thì hoàn thành. Tượng cao 3m9, chu vi 11m, nặng 14 tấn là một công trìnhnghệ thuật vô cùng quý giá không chỉ ở Việt Nam mà còn của Thế giới.Nằm gọn trong lòng Hồ Trúc Bạch nước trong xanh, phẳng lặng, êm ả có hai đảo, đảolớn ở mé hồ phía Đông gọi là Đảo Ngũ Xã – thường gọi là Làng Ngũ Xã. Các cụ tronglàng thường kể về lịch sử làng mình như sau: Vào khoảng đầu Thế kỷ XVII, có 5 ng ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Đường Cổ Ngư Hồ Trúc Bạch địa danh việt nam địa lý việt nam địa danh lịch sử du lịch việt nam địa danh nổi tiếngTài liệu có liên quan:
-
Tìm hiểu địa danh du lịch Việt Nam: Phần 1
144 trang 333 2 0 -
10 trang 127 0 0
-
Tiểu luận: Quảng bá phát triển du lịch Tri Tôn hiện nay - thực trạng và giải pháp
29 trang 107 0 0 -
Đề cương môn học Địa lý tự nhiên Việt Nam 1
7 trang 68 0 0 -
15 trang 66 0 0
-
Giáo trình Văn hóa ẩm thực: Phần 1
73 trang 66 0 0 -
Du lịch Việt Nam trong thời kỳ toàn cầu hoá: Cơ hội và thách thức
6 trang 64 0 0 -
5 trang 61 0 0
-
Du lịch và cẩm nang hướng dẫn (Tập 1): Phần 1
305 trang 51 0 0 -
Tìm hiểu về du lịch Việt Nam qua 26 di sản thế giới: Phần 1
128 trang 50 0 0