Danh mục tài liệu

Học ngoại ngữ sớm có quên tiếng Việt?

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 149.55 KB      Lượt xem: 5      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nhiều người đang thắc mắc có nên dạy đại trà ngoại ngữ cho trẻ lớp một. Hoàn toàn nên, nếu thoả các điều kiện mà tác giả nêu rõ trong bài. Con người có năng lực bẩm sinh ngôn ngữ. Một đứa trẻ Việt vừa lọt lòng, nếu sống trong một gia đình người Pháp, người Anh hay người Hàn thì nó sẽ nói tiếng Pháp, tiếng Anh hay tiếng Hàn. Bất cứ đứa trẻ nào, dù được sinh ra ở đâu, bố mẹ của chúng là ai nhưng được sống trong môi trường ngôn ngữ nào thì nó...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Học ngoại ngữ sớm có quên tiếng Việt? Học ngoại ngữ sớm có quên tiếng Việt? Nhiều người đang thắc mắc có nên dạy đại trà ngoại ngữ cho trẻlớp một. Hoàn toàn nên, nếu thoả các điều kiện mà tác giả nêu rõ trongbài. Con người có năng lực bẩm sinh ngôn ngữ. Một đứa trẻ Việt vừa lọtlòng, nếu sống trong một gia đình người Pháp, người Anh hay người Hàn thìnó sẽ nói tiếng Pháp, tiếng Anh hay tiếng Hàn. Bất cứ đứa trẻ nào, dù đượcsinh ra ở đâu, bố mẹ của chúng là ai nhưng được sống trong môi trườngngôn ngữ nào thì nó nói thứ tiếng đó. Chim muông không có khả năng này. Mỗi loài chỉ có thể “nói” theo“ngôn ngữ” tổ tiên mình. Loài vẹt, loài sáo… có thể “học vẹt” được một sốtừ nào đó của con người, nhưng chúng “nói” mà không hiểu. Còn bộ óc củacon người đã phát triển tới mức có thể tiếp thụ, lĩnh hội được ngôn ngữ kháctiếng mẹ đẻ. Năng lực bẩm sinh ngôn ngữ Trong các ngày 10 – 13.10.1975, tại trung tâm Royaumont, Paris, cócuộc thảo luận về chủ đề lý thuyết về hoạt động ngôn ngữ và sự học tậpngôn ngữ giữa nhà ngôn ngữ học Mỹ lừng danh Noam Chomsky và nhà tâmlý học Thuỵ Sĩ cự phách Jean Piaget. Tham dự còn rất nhiều nhà khoa họctên tuổi thuộc những lĩnh vực nhận thức luận, triết học, y học, di truyền học,thần kinh học, toán học, nhân chủng học, sư phạm học, trí tuệ nhân tạo…Tâm điểm cuộc trao đổi là lý thuyết tính bẩm sinh trong ngôn ngữ của NoamChomsky và lý thuyết về sự phát triển tâm lý nhận thức trong quá trình họctiếng của Jean Piaget. Theo N. Chomsky, ngôn ngữ con người là một hệ thống phổ quát. Cómấy ngàn ngôn ngữ tự nhiên. Chúng chỉ khác nhau trên bề mặt, còn cấu trúcchìm (underlying structures) lại rất giống nhau. Con người thừa hưởng mộtnăng lực bẩm sinh về ngôn ngữ được di truyền từ đời này qua đời khác. Trẻem dùng cái năng lực bẩm sinh ngôn ngữ này để học những ngôn ngữ cụ thể.Đây là học nói. Sau mới học viết, học các quy tắc từ vựng, ngữ pháp. Đứa trẻ hình thành một ngôn ngữ qua quá trình tiếp nhận, học tập,sáng tạo nhờ năng lực bẩm sinh ngôn ngữ. Các em bắt chước và lặp lại theolời người lớn, tự ghép nối những từ rời theo những “quy tắc” các em cảmnhận được khi nghe người chung quanh nói và được điều chỉnh, rút kinhnghiệm theo sự chỉ bảo của người lớn cho đúng với tình huống dùng… Trong khi đó, trường phái hành vi luận (behaviorism) trong giảng dạyvà học tập ngôn ngữ lại dựa trên hòn đá tảng là tính phi bẩm sinh(innateness). Quá trình kích thích – phản xạ theo những cách tiếp cận khácnhau sẽ tạo ra những thói quen ngôn ngữ, rồi trở thành những cấu trúc ngônngữ. Theo thời gian, năng lực bẩm sinh ngôn ngữ giảm dần. Lúc này, sựkhác biệt loại hình (typology) giữa hai ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng đến sự tiếpnhận của người học. Người Pháp học tiếng Rumani dễ hơn học tiếng Việt.Người Việt học tiếng Trung dễ hơn học tiếng Nga. Luận điểm của JeanPiaget về thụ đắc ngôn ngữ đúng ở giai đoạn này. Những người song ngữ “Người song ngữ” là người biết hai thứ tiếng. Nước ta có những cộngđồng dân tộc nằm trong cộng đồng người Việt nên họ nói hai thứ tiếng, tiếngViệt và tiếng của cộng đồng mình: tiếng Hoa, tiếng Khmer, tiếng Chăm,tiếng Tày, tiếng Êđê, tiếng Khơmú… Có sự phân biệt song ngữ hoàn toàn, thành thạo hai ngôn ngữ nhưnhau, và song ngữ bộ phận, nắm vững một ngôn ngữ còn ngôn ngữ kia dùngđược trong từng phạm vi cơ bản. Lại có thể phân biệt “song ngữ mù chữ” và“song ngữ biết chữ”. Có những người Hoa ở Sóc Trăng nói thoải mái ba thứtiếng Việt, Hoa, Khmer vẫn có thể mù chữ một, hai thứ tiếng mà họ nóithành thạo. Điều này là một bằng chứng ủng hộ cho giả thuyết bẩm sinh:biết nói do học hỏi từ bé, học hỏi trong cộng đồng, chứ không nhất thiết phảibiết chữ, biết các quy tắc ngữ pháp. Có những đứa trẻ nói được hai thứ tiếng thành thạo như nhau, thứtiếng mà bố mẹ dùng trong gia đình nó nghe từ bé và thứ tiếng của xã hội màđứa trẻ học khi tới lớp mẫu giáo và lớn lên trong nhà trường. Nên học ngoại ngữ từ rất sớm Không thấy nghiên cứu nào nói rằng khả năng bẩm sinh không dùngđược để tiếp nhận hai ngôn ngữ. Vậy thì, sau năm năm đầu đời các em đã vôthức tiếp nhận được cơ cấu tiếng Việt, năng lực bẩm s inh ngôn ngữ vẫnđược các em dùng để tiếp nhận một ngoại ngữ khác. Nên tận dụng điều nàycho trẻ em học ngoại ngữ từ rất sớm. Sẽ hiệu quả hơn nhiều so với tới trunghọc mới học ngoại ngữ. Vấn đề là phải có những điều kiện cần để việc họcngoại ngữ sớm thành công. Trước hết, cách học tiếng ở giai đoạn này là học mà chơi, chơi màhọc. Học theo kiểu bắt chước những hình ảnh thấy trên màn hình, bắt chướclời thầy cô, bắt chước những tình huống giao tiếp. Muốn vậy, một mặt cần có chương trình và phương tiện giảng dạy tốt:thật nhẹ nhàng, sinh động qua những trò chơi, và bài hát thích hợp với tâmsinh lý trẻ nhỏ. Mặt khác, thầy cô phải là những người mẫu mực, thực sựthông thạo trong giao tiếp tiếng Anh để trẻ em bắt chước. Nói cách khác, cầnnhững giáo viên giỏi. Năng lực ngoại ngữ của trẻ em sẽ mất đi nếu không được rèn luyệnliên tục. Trong tình hình hiện nay, khi chưa đủ những điều kiện cần, việc dạyđại trà tiếng Anh ngay từ lớp một sẽ khó thành công. Tuy nhiên, nơi nào vànhững ai có đủ những điều kiện vừa nêu thì không lý do gì mà không dạytiếng Anh cho trẻ từ rất sớm. ...

Tài liệu có liên quan: