
Hội họa cung đình
Số trang: 15
Loại file: pdf
Dung lượng: 217.17 KB
Lượt xem: 22
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Chỉ có triều đình là có toàn quyền và nguồn tài lực để bảo trợ nghệ thuật cao với qui mô đáng kể. Vua chúa đã quy tụ những thư hoạ gia tài giỏi nhất nước về phục vụ cho họ, không chỉ vì họ yêu nghệ thuật mà còn là vì họ muốn tuyên truyền về cái thiên mệnh của họ để đối phó với các thế lực chính trị khác và công chúng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hội họa cung đình Hội họa cung đình Chỉ có triều đình là có toàn quyền và nguồn tài lực để bảo trợ nghệ thuật cao với qui mô đáng kể. Vua chúa đã quy tụ những thư hoạ gia tài giỏi nhất nước về phục vụ cho họ, không chỉ vì họ yêu nghệ thuật mà còn là vì họ muốn tuyên truyền về cái thiên mệnh của họ để đối phó với các thế lực chính trị khác và công chúng. Cuối đời Đường và suốt giai đoạn Ngũ Đại và Thập Quốc phân rã ly loạn trên 50 năm, những truyền thống hội họa cung đình (tạo thành Viện phái) đã được bảo tồn tốt nhất tại Nam Kinh và Tứ Xuyên với các hoạ gia chuyên về hoa điểu và sơn thủy. Sự đỉnh thịnh của tranh hoa điểu trong thời này đã được ghi nhận trong hai tác phẩm đời Tống là Mộng Khê Bút Đàm của Thẩm Quát (1086-1093) và Đồ Hoạ Kiến Văn Chí của Quách Nhược Hư (sống cuối thế kỷ XI). Tác phẩm Đường Triều Danh Hoạ Lục cho biết đời Đường có trên 20 hoạ gia chuyên về hoa điểu, mà người nổi bật nhất là Biên Loan. Cuối đời Đường có hai hoạ gia về hoa điểu trứ danh là Điêu Quang Dẫn và Đằng Xương Hựu. Điêu Quang Dẫn là thầy của Hoàng Thuyên. Trong cục diện thập quốc phân loạn, Hoàng Thuyên (903-968) và Từ Hi (mất khoảng 975) trở thành hai cao thủ về tranh hoa điểu với hai trường phái trái ngược mà người đời gọi là «Từ Hoàng nhị thể» (hai phong cách của Từ Hi và Hoàng Thuyên). Hoàng Thuyên là hoạ gia cung đình (tức viện phái) còn Từ Hi là hoạ gia thôn dã bố y ở Giang Nam. Quách Nhược Hư nói: «Hoàng gia phú quý, Từ Hi dã dật.» Ý nói tranh hoa điểu của Hoàng Thuyên toát vẻ sang trọng, tranh Từ Hi chuộng vẻ mộc mạc bình dị. Về kỹ pháp, Hoàng Thuyên chuyên về tả chân (tả sinh) hay công bút còn Từ Hi chuyên về tả ý hay ý bút. Với công bút, tranh phải giống y như thực. Tác giả trước tiên phải dựng hình bằng những đường nét tinh tế (gọi là câu lặc) làm đường viền của đối tượng (hoa, lá, cành, chim, đá, v.v…) sau đó mới tô màu lên. Trái lại, ý bút là kỹ pháp phóng khoáng, đối tượng được thể hiện một cách tượng trưng, thí dụ một nhánh cây hay một chiếc lá lan lá trúc chỉ vẽ bằng một nét bút lướt đi. Suốt nửa đầu thế kỷ X, tranh sơn thủy có chuyển biến sâu sắc. Nổi bật về sơn thủy có hoạ gia Quách Hi (1000-1090). Vua Tống Huy Tông (cai trị 1101-1125) là một nhà bảo trợ lớn cho các hoạ gia. Bản thân nhà vua cũng là một thư hoạ gia nổi tiếng. Tranh hoa điểu đời này cũng noi theo phong cách của Hoàng Thuyên và Từ Hi đời trước. Hoàng Cư Thái (con của Hoàng Thuyên) rất được vua sủng ái và được mời vào Hàn Lâm Hoạ Viện và do đó phong cách tả thực (công bút) chiếm ảnh hưởng độc tôn trong viện phái (hoạ phái của cung đình). Tuy nhiên trong các đời vua Tống sau đó, con cháu của Từ Hi (như Sùng Tự, Sùng Huân, Sùng Củ) cũng được vua sủng ái. Vì thế phong cách của viện phái là sự dung hợp của tả thực và tả ý. Các hoạ gia tiêu biểu là Thôi Bạch, Thôi Cốc, Ngô Nguyên Dũ, Triệu Xương, Dịch Nguyên Cát. Đời Nam Tống, Hàn Lâm Hoạ Viện có các hoạ gia danh tiếng như Lý An Trung, Lý Địch, Lâm Thung. Hội hoạ đời Nguyên không có gì đặc sắc, chẳng qua là mô phỏng đời Tống. Trong đời Minh, triều đình cũng bảo trợ các hoạ gia. Thời này nổi bật ba hoạ phái: Viện phái (của triều đình), Chiết phái, và Ngô phái. Đại biểu của Viện phái là Đường Dần, Cừu Anh, Chu Thần. Chiết phái gồm các hoạ gia quê Chiết Giang như Ngô Vĩ, Trương Lộ, Tưởng Tam Tùng, Tạ Thời Thần, v.v… Ngô phái tiêu biểu là Thẩm Chu, Văn Trưng Minh, Đổng Kỳ Xương, Vương Phất, v.v… Khi đời Thanh đạt đỉnh thịnh dưới triều vua Càn Long, phong cách Viện phái càng trau chuốt tỉ mỉ do ảnh hưởng thị hiếu của nhà vua và ảnh hưởng phong cách của các giáo sĩ Tây phương kiêm hoạ sĩ, thí dụ như Giuseppe Castiglione (1688- 1768). NGHỆ THUẬT CỦA GIỚI VĂN NHÂN Cuối đời Nam Tống, các văn quan như Tô Thức, Mễ Phất (Mễ Phế), và Lý Công Lân đã khởi sinh một phong cách hội họa gọi là «văn nhân hoạ» – cũng gọi «sĩ đại phu hoạ» (hội họa của các văn nhân, sĩ đại phu) – tương phản với phong cách chính thống của viện phái. Khi người Mông Cổ chiếm Trung Quốc, giới nho sĩ Hán tộc bị nhấn chìm dưới đáy xã hội. Các nho sĩ văn nhân thường thành lập những hội tương tế. Trong hoàn cảnh đó, các tác phẩm hội họa được xem là phương thức để đền ơn đáp nghĩa. Trong hệ thống giáo dục Lục Nghệ của Nho giáo, các nho sĩ cũng thường phải giỏi về thư pháp. Do đó văn nhân hoạ đã phản ánh kỹ pháp của thư pháp. Theo Triệu Mạnh Phủ – một đại thư hoạ gia đời Nguyên thuộc văn nhân hoạ phái – những nét cứng cỏi của chữ triện hoá thân thành những cành cây, thân cây; còn tám nét cơ bản của thư pháp (tức vĩnh tự bát pháp: tám nét của chữ vĩnh) thì hoá thân thành các lá cây như lá lan lá trúc. Những nét bút khô mực tạo thành dáng thô nhám sần sùi, thích hợp vẽ đá. Người thưởng ngoạn sành điệu có thể nhận ra kỹ pháp của thư gia trong cách vận bút của hoạ gia. Các hoạ gia thuộc văn nhân hoạ phái chuộng tranh đơn sắc, thường là màu mực đen với những mức độ đậm nhạt của mực. Những tranh vẽ tứ quân tử ( ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hội họa cung đình Hội họa cung đình Chỉ có triều đình là có toàn quyền và nguồn tài lực để bảo trợ nghệ thuật cao với qui mô đáng kể. Vua chúa đã quy tụ những thư hoạ gia tài giỏi nhất nước về phục vụ cho họ, không chỉ vì họ yêu nghệ thuật mà còn là vì họ muốn tuyên truyền về cái thiên mệnh của họ để đối phó với các thế lực chính trị khác và công chúng. Cuối đời Đường và suốt giai đoạn Ngũ Đại và Thập Quốc phân rã ly loạn trên 50 năm, những truyền thống hội họa cung đình (tạo thành Viện phái) đã được bảo tồn tốt nhất tại Nam Kinh và Tứ Xuyên với các hoạ gia chuyên về hoa điểu và sơn thủy. Sự đỉnh thịnh của tranh hoa điểu trong thời này đã được ghi nhận trong hai tác phẩm đời Tống là Mộng Khê Bút Đàm của Thẩm Quát (1086-1093) và Đồ Hoạ Kiến Văn Chí của Quách Nhược Hư (sống cuối thế kỷ XI). Tác phẩm Đường Triều Danh Hoạ Lục cho biết đời Đường có trên 20 hoạ gia chuyên về hoa điểu, mà người nổi bật nhất là Biên Loan. Cuối đời Đường có hai hoạ gia về hoa điểu trứ danh là Điêu Quang Dẫn và Đằng Xương Hựu. Điêu Quang Dẫn là thầy của Hoàng Thuyên. Trong cục diện thập quốc phân loạn, Hoàng Thuyên (903-968) và Từ Hi (mất khoảng 975) trở thành hai cao thủ về tranh hoa điểu với hai trường phái trái ngược mà người đời gọi là «Từ Hoàng nhị thể» (hai phong cách của Từ Hi và Hoàng Thuyên). Hoàng Thuyên là hoạ gia cung đình (tức viện phái) còn Từ Hi là hoạ gia thôn dã bố y ở Giang Nam. Quách Nhược Hư nói: «Hoàng gia phú quý, Từ Hi dã dật.» Ý nói tranh hoa điểu của Hoàng Thuyên toát vẻ sang trọng, tranh Từ Hi chuộng vẻ mộc mạc bình dị. Về kỹ pháp, Hoàng Thuyên chuyên về tả chân (tả sinh) hay công bút còn Từ Hi chuyên về tả ý hay ý bút. Với công bút, tranh phải giống y như thực. Tác giả trước tiên phải dựng hình bằng những đường nét tinh tế (gọi là câu lặc) làm đường viền của đối tượng (hoa, lá, cành, chim, đá, v.v…) sau đó mới tô màu lên. Trái lại, ý bút là kỹ pháp phóng khoáng, đối tượng được thể hiện một cách tượng trưng, thí dụ một nhánh cây hay một chiếc lá lan lá trúc chỉ vẽ bằng một nét bút lướt đi. Suốt nửa đầu thế kỷ X, tranh sơn thủy có chuyển biến sâu sắc. Nổi bật về sơn thủy có hoạ gia Quách Hi (1000-1090). Vua Tống Huy Tông (cai trị 1101-1125) là một nhà bảo trợ lớn cho các hoạ gia. Bản thân nhà vua cũng là một thư hoạ gia nổi tiếng. Tranh hoa điểu đời này cũng noi theo phong cách của Hoàng Thuyên và Từ Hi đời trước. Hoàng Cư Thái (con của Hoàng Thuyên) rất được vua sủng ái và được mời vào Hàn Lâm Hoạ Viện và do đó phong cách tả thực (công bút) chiếm ảnh hưởng độc tôn trong viện phái (hoạ phái của cung đình). Tuy nhiên trong các đời vua Tống sau đó, con cháu của Từ Hi (như Sùng Tự, Sùng Huân, Sùng Củ) cũng được vua sủng ái. Vì thế phong cách của viện phái là sự dung hợp của tả thực và tả ý. Các hoạ gia tiêu biểu là Thôi Bạch, Thôi Cốc, Ngô Nguyên Dũ, Triệu Xương, Dịch Nguyên Cát. Đời Nam Tống, Hàn Lâm Hoạ Viện có các hoạ gia danh tiếng như Lý An Trung, Lý Địch, Lâm Thung. Hội hoạ đời Nguyên không có gì đặc sắc, chẳng qua là mô phỏng đời Tống. Trong đời Minh, triều đình cũng bảo trợ các hoạ gia. Thời này nổi bật ba hoạ phái: Viện phái (của triều đình), Chiết phái, và Ngô phái. Đại biểu của Viện phái là Đường Dần, Cừu Anh, Chu Thần. Chiết phái gồm các hoạ gia quê Chiết Giang như Ngô Vĩ, Trương Lộ, Tưởng Tam Tùng, Tạ Thời Thần, v.v… Ngô phái tiêu biểu là Thẩm Chu, Văn Trưng Minh, Đổng Kỳ Xương, Vương Phất, v.v… Khi đời Thanh đạt đỉnh thịnh dưới triều vua Càn Long, phong cách Viện phái càng trau chuốt tỉ mỉ do ảnh hưởng thị hiếu của nhà vua và ảnh hưởng phong cách của các giáo sĩ Tây phương kiêm hoạ sĩ, thí dụ như Giuseppe Castiglione (1688- 1768). NGHỆ THUẬT CỦA GIỚI VĂN NHÂN Cuối đời Nam Tống, các văn quan như Tô Thức, Mễ Phất (Mễ Phế), và Lý Công Lân đã khởi sinh một phong cách hội họa gọi là «văn nhân hoạ» – cũng gọi «sĩ đại phu hoạ» (hội họa của các văn nhân, sĩ đại phu) – tương phản với phong cách chính thống của viện phái. Khi người Mông Cổ chiếm Trung Quốc, giới nho sĩ Hán tộc bị nhấn chìm dưới đáy xã hội. Các nho sĩ văn nhân thường thành lập những hội tương tế. Trong hoàn cảnh đó, các tác phẩm hội họa được xem là phương thức để đền ơn đáp nghĩa. Trong hệ thống giáo dục Lục Nghệ của Nho giáo, các nho sĩ cũng thường phải giỏi về thư pháp. Do đó văn nhân hoạ đã phản ánh kỹ pháp của thư pháp. Theo Triệu Mạnh Phủ – một đại thư hoạ gia đời Nguyên thuộc văn nhân hoạ phái – những nét cứng cỏi của chữ triện hoá thân thành những cành cây, thân cây; còn tám nét cơ bản của thư pháp (tức vĩnh tự bát pháp: tám nét của chữ vĩnh) thì hoá thân thành các lá cây như lá lan lá trúc. Những nét bút khô mực tạo thành dáng thô nhám sần sùi, thích hợp vẽ đá. Người thưởng ngoạn sành điệu có thể nhận ra kỹ pháp của thư gia trong cách vận bút của hoạ gia. Các hoạ gia thuộc văn nhân hoạ phái chuộng tranh đơn sắc, thường là màu mực đen với những mức độ đậm nhạt của mực. Những tranh vẽ tứ quân tử ( ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Hội họa cung đình kiệt tác hội họa tác phẩm hội họa mỹ thuật việt nam trường phái nghệ thuật kiến thức mỹ thuâtTài liệu có liên quan:
-
Tranh biếm họa trào phúng của họa sỹ Pawel Kuczynski
10 trang 348 0 0 -
Tài liệu Lịch sử mỹ thuật Việt Nam
20 trang 171 4 0 -
Một số tác giả, tác phẩm của hội họa cách mạng Việt Nam
39 trang 99 0 0 -
7 trang 88 0 0
-
10 trang 63 0 0
-
Sơ lược về Mỹ thuật thời Trần (1226-1400)
10 trang 62 0 0 -
Giáo trình Vẽ mỹ thuật 1: Vẽ bút sắt - Trần Văn Tâm
46 trang 61 1 0 -
CHÂN DUNG HỌA SỸ NGUYỄN GIA TRÍ
3 trang 53 1 0 -
8 trang 51 0 0
-
5 trang 48 0 0
-
MỖI BỨC TRANH MỸ THUẬT - MỘT TẤM LÒNG
11 trang 48 0 0 -
QUANG LONG TỰ CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC ĐỘC ĐÁO
5 trang 48 0 0 -
Design trong thiết kế Mỹ thuật vì cuộc sống
9 trang 48 0 0 -
TRANH GƯƠNG CUNG ĐÌNH MỸ THUẬT HUẾ
7 trang 48 0 0 -
Chạm khắc gỗ - Nghệ thuật thổi hồn vào cội rễ
21 trang 48 0 0 -
Tìm hiểu về điêu khắc Gỗ dân gian
12 trang 47 0 0 -
ĐÔI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT MỸ THUẬT SƠN MÀI VIỆT NAM
8 trang 46 0 0 -
20 trang 45 0 0
-
5 trang 44 0 0
-
4 trang 43 0 0