Kẻ cắp chợ Đồng Xuân
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 276.42 KB
Lượt xem: 16
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Từ lâu trong dân gian lưu truyền câu nói “kẻ cắp chợ Đồng Xuân”, với hàm ý chợ Đồng Xuân có rất nhiều kẻ cắp và có ý thán phục tài nghệ của kẻ cắp ở cái chợ lớn nhất Bắc Kỳ… Sau khi trở thành nhượng địa của Pháp năm 1888, đốc lý Landes Charles (nắm quyền từ 8.6.1899 đến 15.1.1890) ra quyết định xóa bỏ hai ngôi chợ cũ của Hà Nội vốn họp cạnh đền Bạch Mã và Cầu Đông, dồn tất cả về họp ở cái chợ nhỏ nằm trước cửa đền Huyền Thiên, thuộc phường...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kẻ cắp chợ Đồng Xuân Kẻ cắp chợ Đồng XuânTừ lâu trong dân gian lưu truyền câu nói “kẻ cắp chợ Đồng Xuân”, với hàm ý chợĐồng Xuân có rất nhiều kẻ cắp và có ý thán phục tài nghệ của kẻ cắp ở cái chợ lớnnhất Bắc Kỳ…Sau khi trở thành nhượng địa của Pháp năm 1888, đốc lý Landes Charles (nắm quyền từ8.6.1899 đến 15.1.1890) ra quyết định xóa bỏ hai ngôi chợ cũ của Hà Nội vốn họp cạnhđền Bạch Mã và Cầu Đông, dồn tất cả về họp ở cái chợ nhỏ nằm trước cửa đền HuyềnThiên, thuộc phường Đồng Xuân. Năm 1889 có tên là chợ Mới, nhưng năm 1890 đổithành Đồng Xuân.Chợ Đồng Xuân ngày xưaBan đầu, chợ họp ngoài trời, diện tích chợ nhỏ rồi sau đó lan ra phố Hàng Khoai, HàngGạo. Tuy là chợ hàng ngày nhưng mỗi tháng có một phiên họp vào ngày đầu tháng âmlịch, chợ phiên đông đúc kẻ mua người bán hơn ngày thường do bà con các vùng ngoạithành mang bán các loại cây giống, súc vật giống như lợn, chó, mèo…Vì số người mua bán quá đông nên chính quyền thành phố cho phép tràn sang khu đấtmới lấp. Để bắt tất cả kẻ mua người bán phải vào chợ và không chiếm đường đi của cácphố xung quanh, đồng thời không bỏ sót thuế, chính quyền cho quây xung quanh bằngrào tre với diện tích khoảng 10.000 mét vuông. Chợ Đồng Xuân ban đầu không có hànglối, những người bán cùng mặt hàng tự ngồi gần nhau để dễ bán dễ mua. Thấy thuế chợĐồng Xuân là nguồn thu lớn nhất cho ngân sách nên Landes Charles quyết định nâng chợphiên từ tháng một lần lên hai lần, đồng thời cho xây lại chợ.Khung chợ đúc bằng gang chuyển từ Pháp sang và có năm bộ kèo, mỗi bộ dài 52 mét,cao 19 mét, mái lợp bằng tôn để che mưa che nắng. Năm 1892, trong kế hoạch xây dựnglại khu vực phố cổ để Hà Nội văn minh hơn, chính quyền thành phố đã cho xây tường ởmặt cổng ra vào và đến năm 1893 thì xây tường bao xung quanh. Vào chợ có ba lối, cổngchính là mặt phố Đồng Xuân hiện nay với ba cổng, cổng bên ở phố Hàng Khoai và mộtcổng ở phố Hàng Chiếu. Đồng Xuân trở thành chợ lớn nhất Bắc Kỳ vừa bán lẻ vừa bánbuôn cho người các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra.Cuối thế kỷ XIX, chợ Đồng Xuân không chỉ có các mặt hàng sản xuất trong nước mà chợbán rất nhiều hàng hóa tiêu dùng nhập từ nước ngoài, trong đó có táo, lê nhập từ SanFransico (Mỹ), vải từ Anh, hàng tiêu dùng từ Pháp, Hồng Công và Thượng Hải (TrungQuốc), nên người ta bắt đầu chia thành từng dãy, đồng thời quy định cụ thể khu vực nàybán hàng gì, khu vực kia bán hàng gì. Thẳng cổng chính là dãy bán vải, bên trái là bánhoa quả, kế đó là bán tạp hóa rồi đến các quầy bán thịt, rau, đồ sắt, ăn uống và có cả khuvực dành cho những người xem bói. Trong bài xẩm Vui nhất là chợ Đồng Xuân, người taliệt kê ra rất cụ thể chuyện này:…Vui nhất có chợ Đồng Xuân,Mùa nào thức nấy xa gần xem mua.Cổng giữa có chị bán dừa,Hàng cau, hàng quít, hàng dưa, hàng hồng.Ai ơi đứng lại mà trông,Hàng vóc hàng nhiễu thong dong mượt mà.Ngoài chợ có chị hàng hoa,Có người đổi bạc đi ra đi vào.Nào hàng bún nấu bán rao,…Đầu thế kỷ XX, rau quả từ Đà Lạt chuyển ra theo tàu hỏa, su hào, bắp cải từ Sapa chuyểnvề bằng ô tô và nhiều mặt hàng sản xuất từ Sài Gòn chuyển ra như xà phòng Cô Ba, nướchoa, rồi bàn chải, dầu nóng… Vì là chợ lớn, lại đầy đủ các mặt hàng nên sáng sáng đànbà con gái người Pháp, Nhật, Ấn… và me Tây, muốn mua sắm cái gì đều phải lên ĐồngXuân.Phục vụ cho những người bán hàng và mua hàng là những đội bâté (phu chuyên mangvác thuê), trong bộ sách Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Uẩnviết: “Các phường bâté này là trẻ em cả trai lẫn gái dưới 16 tuổi chuyên cắp rổ theo ngườiđi chợ, họ mua cái gì thì bỏ vào rổ của chúng, sau khi mua đủ chúng sẽ mang ra xe chohọ và nhận tiền boa”.Phân biệt giữa phường này với phường kia là ở màu sắc cái rổ, nếu phường này sơn đenthì phường kia sẽ để nguyên màu ám khói. Do có nhiều phường bâté nên cạnh tranh diễnra quyết liệt, để hạ uy tín của nhau, người của phường này lợi dụng chợ đông thò tay lấycắp hàng trong rổ của phường kia và ngược lại. Dù nhiều người đi chợ yêu cầu trẻ cắp rổtheo mình cảnh giác nhưng hàng hóa vẫn bị mất, sự việc diễn ra quá nhiều và cảnh sát bốtHàng Đậu bí mật theo dõi cũng không phát hiện được nên người đi chợ nói với nhau:“Đúng là kẻ cắp chợ Đông Xuân”. Dần dần câu nói đó loang ra khắp thành phố.Trước khi trở thành người giàu có thì Công Tu Nghiệp (người làng Phú Gia, nay thuộcphường Phú Thượng, quận Tây Hồ) từng là trẻ phụ bán hàng ở quầy vải chợ Đồng Xuânhồi đầu thế kỷ XX. Vợ chồng một người Pháp thấy Nghiệp dễ thương nhận làm con nuôivà dạy cho nghề nấu ăn. Khi trưởng thành, Nghiệp xin ra ở riêng và mở cửa hàng, rồi từđó mà thành đạt. Lúc ông còn sống, có người hỏi ông về chuyện kẻ cắp chợ Đồng Xuân,ông bảo chỉ có các phường bâté lấy của nhau.Sau cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở Hà Nội vào tháng 7.1959, chợ ĐồngXuân không còn là cái “dạ dày” của Hà Nội, các phường bâté cũng bị giải tán, hàng hóaít dần, vì thế chợ cũng vắng người… Sự thể “kẻ cắp chợ Đồng Xuân” ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kẻ cắp chợ Đồng Xuân Kẻ cắp chợ Đồng XuânTừ lâu trong dân gian lưu truyền câu nói “kẻ cắp chợ Đồng Xuân”, với hàm ý chợĐồng Xuân có rất nhiều kẻ cắp và có ý thán phục tài nghệ của kẻ cắp ở cái chợ lớnnhất Bắc Kỳ…Sau khi trở thành nhượng địa của Pháp năm 1888, đốc lý Landes Charles (nắm quyền từ8.6.1899 đến 15.1.1890) ra quyết định xóa bỏ hai ngôi chợ cũ của Hà Nội vốn họp cạnhđền Bạch Mã và Cầu Đông, dồn tất cả về họp ở cái chợ nhỏ nằm trước cửa đền HuyềnThiên, thuộc phường Đồng Xuân. Năm 1889 có tên là chợ Mới, nhưng năm 1890 đổithành Đồng Xuân.Chợ Đồng Xuân ngày xưaBan đầu, chợ họp ngoài trời, diện tích chợ nhỏ rồi sau đó lan ra phố Hàng Khoai, HàngGạo. Tuy là chợ hàng ngày nhưng mỗi tháng có một phiên họp vào ngày đầu tháng âmlịch, chợ phiên đông đúc kẻ mua người bán hơn ngày thường do bà con các vùng ngoạithành mang bán các loại cây giống, súc vật giống như lợn, chó, mèo…Vì số người mua bán quá đông nên chính quyền thành phố cho phép tràn sang khu đấtmới lấp. Để bắt tất cả kẻ mua người bán phải vào chợ và không chiếm đường đi của cácphố xung quanh, đồng thời không bỏ sót thuế, chính quyền cho quây xung quanh bằngrào tre với diện tích khoảng 10.000 mét vuông. Chợ Đồng Xuân ban đầu không có hànglối, những người bán cùng mặt hàng tự ngồi gần nhau để dễ bán dễ mua. Thấy thuế chợĐồng Xuân là nguồn thu lớn nhất cho ngân sách nên Landes Charles quyết định nâng chợphiên từ tháng một lần lên hai lần, đồng thời cho xây lại chợ.Khung chợ đúc bằng gang chuyển từ Pháp sang và có năm bộ kèo, mỗi bộ dài 52 mét,cao 19 mét, mái lợp bằng tôn để che mưa che nắng. Năm 1892, trong kế hoạch xây dựnglại khu vực phố cổ để Hà Nội văn minh hơn, chính quyền thành phố đã cho xây tường ởmặt cổng ra vào và đến năm 1893 thì xây tường bao xung quanh. Vào chợ có ba lối, cổngchính là mặt phố Đồng Xuân hiện nay với ba cổng, cổng bên ở phố Hàng Khoai và mộtcổng ở phố Hàng Chiếu. Đồng Xuân trở thành chợ lớn nhất Bắc Kỳ vừa bán lẻ vừa bánbuôn cho người các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra.Cuối thế kỷ XIX, chợ Đồng Xuân không chỉ có các mặt hàng sản xuất trong nước mà chợbán rất nhiều hàng hóa tiêu dùng nhập từ nước ngoài, trong đó có táo, lê nhập từ SanFransico (Mỹ), vải từ Anh, hàng tiêu dùng từ Pháp, Hồng Công và Thượng Hải (TrungQuốc), nên người ta bắt đầu chia thành từng dãy, đồng thời quy định cụ thể khu vực nàybán hàng gì, khu vực kia bán hàng gì. Thẳng cổng chính là dãy bán vải, bên trái là bánhoa quả, kế đó là bán tạp hóa rồi đến các quầy bán thịt, rau, đồ sắt, ăn uống và có cả khuvực dành cho những người xem bói. Trong bài xẩm Vui nhất là chợ Đồng Xuân, người taliệt kê ra rất cụ thể chuyện này:…Vui nhất có chợ Đồng Xuân,Mùa nào thức nấy xa gần xem mua.Cổng giữa có chị bán dừa,Hàng cau, hàng quít, hàng dưa, hàng hồng.Ai ơi đứng lại mà trông,Hàng vóc hàng nhiễu thong dong mượt mà.Ngoài chợ có chị hàng hoa,Có người đổi bạc đi ra đi vào.Nào hàng bún nấu bán rao,…Đầu thế kỷ XX, rau quả từ Đà Lạt chuyển ra theo tàu hỏa, su hào, bắp cải từ Sapa chuyểnvề bằng ô tô và nhiều mặt hàng sản xuất từ Sài Gòn chuyển ra như xà phòng Cô Ba, nướchoa, rồi bàn chải, dầu nóng… Vì là chợ lớn, lại đầy đủ các mặt hàng nên sáng sáng đànbà con gái người Pháp, Nhật, Ấn… và me Tây, muốn mua sắm cái gì đều phải lên ĐồngXuân.Phục vụ cho những người bán hàng và mua hàng là những đội bâté (phu chuyên mangvác thuê), trong bộ sách Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Uẩnviết: “Các phường bâté này là trẻ em cả trai lẫn gái dưới 16 tuổi chuyên cắp rổ theo ngườiđi chợ, họ mua cái gì thì bỏ vào rổ của chúng, sau khi mua đủ chúng sẽ mang ra xe chohọ và nhận tiền boa”.Phân biệt giữa phường này với phường kia là ở màu sắc cái rổ, nếu phường này sơn đenthì phường kia sẽ để nguyên màu ám khói. Do có nhiều phường bâté nên cạnh tranh diễnra quyết liệt, để hạ uy tín của nhau, người của phường này lợi dụng chợ đông thò tay lấycắp hàng trong rổ của phường kia và ngược lại. Dù nhiều người đi chợ yêu cầu trẻ cắp rổtheo mình cảnh giác nhưng hàng hóa vẫn bị mất, sự việc diễn ra quá nhiều và cảnh sát bốtHàng Đậu bí mật theo dõi cũng không phát hiện được nên người đi chợ nói với nhau:“Đúng là kẻ cắp chợ Đông Xuân”. Dần dần câu nói đó loang ra khắp thành phố.Trước khi trở thành người giàu có thì Công Tu Nghiệp (người làng Phú Gia, nay thuộcphường Phú Thượng, quận Tây Hồ) từng là trẻ phụ bán hàng ở quầy vải chợ Đồng Xuânhồi đầu thế kỷ XX. Vợ chồng một người Pháp thấy Nghiệp dễ thương nhận làm con nuôivà dạy cho nghề nấu ăn. Khi trưởng thành, Nghiệp xin ra ở riêng và mở cửa hàng, rồi từđó mà thành đạt. Lúc ông còn sống, có người hỏi ông về chuyện kẻ cắp chợ Đồng Xuân,ông bảo chỉ có các phường bâté lấy của nhau.Sau cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở Hà Nội vào tháng 7.1959, chợ ĐồngXuân không còn là cái “dạ dày” của Hà Nội, các phường bâté cũng bị giải tán, hàng hóaít dần, vì thế chợ cũng vắng người… Sự thể “kẻ cắp chợ Đồng Xuân” ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
chợ Đồng Xuân địa danh việt nam địa lý việt nam địa danh lịch sử du lịch việt nam địa danh nổi tiếngTài liệu có liên quan:
-
Tìm hiểu địa danh du lịch Việt Nam: Phần 1
144 trang 333 2 0 -
10 trang 127 0 0
-
Tiểu luận: Quảng bá phát triển du lịch Tri Tôn hiện nay - thực trạng và giải pháp
29 trang 107 0 0 -
Đề cương môn học Địa lý tự nhiên Việt Nam 1
7 trang 69 0 0 -
15 trang 66 0 0
-
Giáo trình Văn hóa ẩm thực: Phần 1
73 trang 66 0 0 -
Du lịch Việt Nam trong thời kỳ toàn cầu hoá: Cơ hội và thách thức
6 trang 64 0 0 -
5 trang 61 0 0
-
Du lịch và cẩm nang hướng dẫn (Tập 1): Phần 1
305 trang 51 0 0 -
Tìm hiểu về du lịch Việt Nam qua 26 di sản thế giới: Phần 1
128 trang 50 0 0