Danh mục tài liệu

Kiềm chế lạm phát và vai trò của kiểm toán nhà nước

Số trang: 23      Loại file: pdf      Dung lượng: 150.39 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

“….Tình hình vi phạm tài chính- ngân sách ở các đơn vị được kiểm toán lần sau không thuyên giảm so với lần trước; thậm chí về phạm vi và quy mô còn rộng lớn hơn, tính chất nghiêm trọng hơn. Tình hình vi phạm tài chính- ngân sách ở các đơn vị được kiểm toán lần sau không thuyên giảm so với lần trước; thậm chí về phạm vi và quy mô còn rộng lớn hơn, tính chất nghiêm trọng hơn. Như vậy một mặt, việc xử lý thông tin của chính phủ, các cấp, các ngành ở Trung ương và chính quyền...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kiềm chế lạm phát và vai trò của kiểm toán nhà nước Kiềm chế lạm phát và vai trò của kiểm toán nhà nước Kiềm chế lạm phát và vai trò của kiểm toán nhà nước “….Tình hình vi phạm tài chính- ngân sách ở các đơn vị được kiểm toán lần sau không thuyên giảm so với lần trước; thậm chí về phạm vi và quy mô còn rộng lớn hơn, tính chất nghiêm trọng hơn. Như vậy một mặt, việc xử lý thông tin của chính phủ, các cấp, các ngành ở Trung ương và chính quyền các địa phương chưa được coi trọng hoặc thiếu những biện pháp xử lý kiên quyết…” Nền kinh tế Việt Nam đã và dang đứng trước thách thức lạm phát mang tính toàn cầu. Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện 16 biện pháp đồng bộ để kiềm chế lạm phát trong năm 2008. Đồng thời, Thủ tướng chính phủ đã giao cho Ngân hàng Nhà nước, Bộ tài chính, Bộ công thương, Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và đầu tư, và Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước thường xuyên cập nhật và cung cấp kịp thời những thông tin về tài chính,tiền tệ, chứng khoán và các biện pháp kiềm chế lạm phát, kiểm soát tăng giá để thông tin chính thức đến người dân, góp phần định hướng dư luận, thực hiện việc giao bán hàng tuần về tình hình thực hiện các biện pháp kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Vấn đề đặt ra là, Chính phủ với tư cách là “Bộ tổng tư lệnh” điều hành kinh tế vĩ mô phải kịp thời đưa ra các biện pháp kiềm chế lạm phát đồng bộ và hiệu quả, vừa giữ được tốc độ phát triển kinh tế vừa ổn định được sự an sinh của toàn xã hội. Lạm phát- thách thức xuyên quốc gia. “Trong một nền kinh tế,lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiên. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ này với một loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi của một nền kinh tế của một quốc gia; còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiêu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu”(1). Như vậy, lạm phát song hành với nền kinh tế hàng hoá- tiền tệ nói chung và nền kinh tế thị trường nói riêng. Nhìn lại tiến trình lịch sử thấy rằng tại vương quốc Anh, tính từ năm 1270 đến nay, mức giá trung bình tăng hơn 400 lần hay hơn 40.000%; đặc biệt là trong đại chiến thế giới lần thứ hai và cơn sốt dầu lửa leo lên đỉnh điểm vào những năm 70 của thế kỉ XX. Tại Hoa kỳ, chỉ tính riêng năm 1860, giá cả hàng hoá tăng 20 lần hay 2.000%. Tại Đức, chỉ trong vòng 22 tháng(01/1921-11/1922) chỉ số đánh giá tiêu dùng tăng tới mức kỷ lục là 10 triệu lần. Tại Nam Phi(cũ), vào những năm đầu của thập kỷ 90, lạm phát diễn ra theo từng giờ, mỗi giờ giá cả thị trường tăng bình quân 1% dẫn đến việc Chính phủ phải phát hành hàng loạt giấy bạc mệnh giá 5 tỷ Đi-na; đồng thời, kéo theo sự tan rã hoàn toàn của Chính phủ đương nhiệm. Tại Bô-lô-vi-a, lạm phát lên đến 11 lần hay 11.000%vào năm 1985. Nhiều nước ở Châu Mỹ La-tinh, lạm phát dao động từ 50-700%. Tại thời điểm này, lạm phát đang đứng ngưỡng cao nhất ở Ả Rập-Xê út trong vòng 16 năm qua, ở Trung Quốc là 11 năm, ở Thuỵ Sĩ là 14 năm và ở Singapore là 25 năm…Mới đây, Bộ trưởng Bộ tài chính Thái Lan đã thông báo về việc điều chỉnh chỉ số lạm phát năm 2008 từ 3-3.5% lên 5-5.5% do giá dầu mỏ tăng. Theo dự báo của ngân hàng Trung ương Châu Âu(ECB), lạm phát ở các nước thuộc khu vực Châu Âu diễn ra mạnh hơn với tốc độ cao nhất trong vòng 14 năm trở lại đây đã trực tiếp ảnh hưởng đến tâm lý người tiêu dùng; đặc biệt là tầng lớp thu nhập thấp và dân nghèo. Đối với Việt Nam, khái niệm “lạm phát” không phải bây giờ mới xuất hiện mà ngay từ năm 1982 trở về trước: Từ năm 1978 đến năm 1989, tốc độ lạm phát bình quân hàng năm là 500%. Thu ngân sách chỉ đáp ứng khoảng 60-75% chi tiêu. Từ cuối thập kỷ 80, tỷ lệ lạm phát đã giảm xuống mức chỉ còn hai con số và tỷ lệ này luôn nằm dưới mức cho phép của Quốc hội. Từ năm 2001 đến năm 2004, tỷ lệ lạm phát tăng từ 0,8% lên đến 9,5% rồi giảm dần xuống 8,4%(năm2005) và 6,6% (năm 2006). Năm 2007, tỷ lệ lạm phát lại tăng lên 12,6% và chỉ trong hai tháng đầu năm 2008, tỷ lệ lạm phát đã ở mức 6% do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, như: Giá cả thị trường thế giới có xu hướng tăng; diễn biến thiên tai, dịch bệnh trên diện rộng; chưa thoát ra khỏi tư duy bao cấp đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả; sự yếu kém trong đầu tư công; sự bất cập và thiếu đồng bộ của cơ chế chính sách vĩ mô; cơ chế quản lý thị trường tài chính-tín dụng chưa đáp ứng những đòi hỏi có tính quy luật của kinh tế thị trường; đặc biệt là các hoạt động của kho bạc Nhà nước, Quỹ đầu tư của nhà nước, Quản lý ngoại hối quốc gia, thị trường chứng khoán, thị trường vốn và hoạt động tài chính-tín dụng của các tổ chức “lấn sân” của ngân hàng; hàng hoá xuất khẩu chiếm 60% tổng GDP nhưng nguyên liệu sản xuất hàng hoá đó vẫn phải nhập khẩu để gia công, thiếu chính sách khuyến khích nội địa hoá các sản phẩm xuất khẩu từ nguồn nguyên liệu trong nước; chưa có những giải pháp thiết thực và hiệu quả đối với nông dân- nông nghiệp- nông thôn; đầu tư nước ngoài tăng nhanh ngoài dự kiến trong khi khả năng hấp thụ nguồn vốn đầu tư của nền kinh tế thấp, đầu tư cho tăng trưởng kém hiệu quả gây lãng phí và mất cơ hội đầu tư cho các dự án có nhiều khả năng sinh lợi; chưa tạo ra được các mũi nhọn kinh tế mang tính lợi thế, tập trung và chuyên môn hoá cao gắn liền với giá trị của thương hiệu; việc duy trì sản xuất đa ngành, đa lĩnh vực ở một số tập đoàn kinh tế mạnh và giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế… Điều đó khẳng định rằng, tình hình lạm phát đã và đang diễn ra hết sức phức tạp ở mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ và không thể không tính đến sự thay đổi xu thế kinh tế mang tính toàn cầu năm 2008 và những năm tiếp sau. Chấp nhận sự tồn tại của lạm phát cũng có nghĩa là chấp nhận “sống chung với nguy cơ lạm phát” diễn ra bất cứ thời điểm nào do những mâu thuẫn qua lại của quan hệ cung cầu trong nền kinh té thị trường. Song, nếu có ...