
LỊCH SỦ NGHỆ THUẬT TRANH SƠN DẦU
Số trang: 12
Loại file: pdf
Dung lượng: 146.81 KB
Lượt xem: 24
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Lịch sử ngành nghệ thuật sơn dầu: những vấn đề Hội họa là sản phẩm của một thời đại nhất định và một địa điểm nhất định, lịch sử nghệ thuật có mục đích đặt các tác phẩm đó một cách tự nhiên vào một bối cảnh lớn hơn. Ví dụ, bất kỳ ai nghiên cứu nghệ thuật phương Tây đều sẽ học cách nhận biết phong cách nghệ thuật của thời kỳ Phục Hưng, nghệ thuật Baroque, phong cách cổ điển, lãng mạn và hiện đại, và học để hiểu tính phức tạp của tác động lẫn nhau...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LỊCH SỦ NGHỆ THUẬT TRANH SƠN DẦU LỊCH SỦ NGHỆ THUẬT TRANH SƠN DẦU những tác phẩm sơn dầu như thế này của Cezane được coi là những tác phẩm đầu tiên mở đầu trường phái Hậu Ấn tượng Lịch sử ngành nghệ thuật sơn dầu: những vấn đề Hội họa là sản phẩm của một thời đại nhất định và một địa điểm nhất định, lịch sử nghệ thuật có mục đích đặt các tác phẩm đó một cách tự nhiên vào một bối cảnh lớn hơn. Ví dụ, bất kỳ ai nghiên cứu nghệ thuật phương Tây đều sẽ học cách nhận biết phong cách nghệ thuật của thời kỳ Phục Hưng, nghệ thuật Baroque, phong cách cổ điển, lãng mạn và hiện đại, và học để hiểu tính phức tạp của tác động lẫn nhau giữa các luồng tư tưởng, để hiểu cách bảo trợ, hiểu xã hội và những vấn đề kinh tế mà hội họa miêu tả. Trong quá trình nhận biết đó, công tác phê bình nghệ thuật thường nhấn mạnh rằng nghệ thuật ngày nay phải tham gia vào các vấn đề đương đại. Tuy nhiên, có những khó khăn nhất định đối với người họa sỹ: 1. Lịch sử được viết về quá khứ, và lịch sử thường không dễ hiểu đối với những cái đương thời mà đó có thể là những vấn đề quan trọng và tên tuổi nổi tiếng. 2. Tranh quá mực thước, không cho phép thực hiện một công việc rất khác nhau trong cùng một khoảng thời gian: ví dụ, Rubens, Rembrandt và Vermeer. 3. Lịch sử nghệ thuật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phong cách: ta hãy so sánh sách được viết vào những năm 1940 và hiện nay. 4. Khi phân hạng nghệ sỹ về tầm quan trọng của họ, nhà sử học hình như đôi lúc nhận thấy rằng chỉ các tên tuổi lớn mới làm cho ngày nay chú ý đến. Những nghệ sỹ lớn thường nổi trội theo các cách nhất định, tuy vậy họ cũng có những sở đoản hay thiếu sót như mọi người thôi. Ngoài cái mác “thiên tài” của những nghệ sỹ này, người học còn phải hiểu được những vấn đề thực tế của họ. 5. Lịch sử nghệ thuật còn đề cập đến những khái niệm chưa rõ ràng và có tầm quan trọng thứ yếu khi sử dụng thực tế tranh họa. Những vấn đề quan trọng đối với người nghệ sỹ như sáng tạo ra một hiện thực trong hội họa, đem lại phương hướng, công việc và ý nghĩa cho cuộc đời của mình, thì lại đòi hỏi một phương pháp tiếp cận khác. 6. Viết là một bài tập bằng chữ, còn người họa sỹ tư duy về những cái dễ nhìn thấy hơn. Đó là nguyên nhân mà vì sao mà người họa sỹ hiện nay thường không đọc quảng cáo phòng tranh hay báo chí: chỉ vì họ ít dùng chúng mà thôi. Nghệ thuật phương Tây: quá trình phát triển bốn mặt Mặc dù không trình bày bất kỳ một vấn đề riêng nào, mà đôi chỗ lại quá giản đơn, phương pháp tiếp cận của Brian Thomas chỉ có mục đích lý giải hội họa theo góc độ của hội họa. Ông đã phân loại lịch sử hội họa châu Âu thành bốn giai đoạn chồng chéo nhau: Thiết kế đường nét Tìm ra qua mối quan hệ giữa độ đậm nhạt và nét phác thảo. Điểm nổi bật giữa quá trình suy tàn của Đế chế La Mã và thời đại Phục Hưng, có thể là hiện thực hoặc không hiện thực (Gothic Flemish). Yếu tố dễ nhận biết khác với cái dễ lừa ảo giác. Bản rập khuôn và các biểu tượng phi cá nhân thường được dùng. Nét phác được nhấn bởi sự thay đổi độ đậm nhạt. Các kiểu vẽ có ở mọi chỗ. Phổ biến lối tường thuật khi nét đặc trưng không thích hợp với cách kể chuyện bị bỏ qua. Hình ẩn mang tính quan trọng. Nét vẽ bút lông chỉ sử dụng khi minh họa (không như nghệ thuật vùng Viễn Đông). Quá trình phát triển từ thời kỳ cuối của chế độ La mã đến giai đoạn Byzantine và Gothic không dựa vào việc quan sát trực tiếp. Các biểu tượng bị xuyên tạc do ảnh hưởng tôn giáo. Các danh họa nổi tiếng xuất hiện vào cuối thời kỳ này là: Jan van Eyck. Vẽ trực tiếp từ các yếu tố thiên nhiên, lấy ảo giác từ không gian và kiểu vẽ mầu nhạt, mối quan hệ màu sắc. Vẽ theo gam màu sáng và độ đậm nhạt bằng chất màu (có thể là chất nhũ sơn dầu pha trứng) với nước bóng có độ trong suốt nhiều hay ít vẽ các kiểu gam màu sáng và nửa nhạt trong các lớp màng mỏng bằng sơn tối. Holbein. Vẽ theo cách hiểu của mình bằng đường nét viền hết sức giản đơn và tinh tế. Đường nét là các đường ngắn nhạy với những thay đổi về hướng của mặt phẳng. Nét phẳng và chất lượng thực tế mặt vải. Thiết kế hình thức Gồm chiều thứ ba, thường từ đối âm đến thiết kế đường nét. Gồm cả trang trí và miêu tả. Nét hoa văn tinh tế đan xen trong không gian, lúc nhanh, lúc chậm, có khi dừng. Người họa sỹ nghiên cứu thiên nhiên để tạo ra kiểu cách trong không gian, quan hệ với nó theo nhịp điệu. Sử dụng màu sắc và đường nét, đường nét là yếu tố mặt cắt và trục. Các danh họa nổi tiếng xuất hiện vào cuối thời kỳ này là: Cimabue và Duccio đã đổi mới phong cách Byzantine. Giotto và Cavallini áp dụng thiết kế mẫu. Giotto quan sát kỹ thiên nhiên và dùng thiết kế mẫu để tạo ra hoạt cảnh sống động. Masaccio pha chế đường nét của Giotto, sử dụng gam sắc tăng dần để đưa hình vào hiện thực. Gam sắc màu cục bộ được nén lại. Piero della Francesco dùng cách trang trí. Điểm nén được kiểm soát. Hình ảnh tĩnh. Signorelli. Cũng như Masaccio, nhưng ông thường lấy khuôn mẫu qua các gam màu đậm và nhạt, khuếch trương đ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LỊCH SỦ NGHỆ THUẬT TRANH SƠN DẦU LỊCH SỦ NGHỆ THUẬT TRANH SƠN DẦU những tác phẩm sơn dầu như thế này của Cezane được coi là những tác phẩm đầu tiên mở đầu trường phái Hậu Ấn tượng Lịch sử ngành nghệ thuật sơn dầu: những vấn đề Hội họa là sản phẩm của một thời đại nhất định và một địa điểm nhất định, lịch sử nghệ thuật có mục đích đặt các tác phẩm đó một cách tự nhiên vào một bối cảnh lớn hơn. Ví dụ, bất kỳ ai nghiên cứu nghệ thuật phương Tây đều sẽ học cách nhận biết phong cách nghệ thuật của thời kỳ Phục Hưng, nghệ thuật Baroque, phong cách cổ điển, lãng mạn và hiện đại, và học để hiểu tính phức tạp của tác động lẫn nhau giữa các luồng tư tưởng, để hiểu cách bảo trợ, hiểu xã hội và những vấn đề kinh tế mà hội họa miêu tả. Trong quá trình nhận biết đó, công tác phê bình nghệ thuật thường nhấn mạnh rằng nghệ thuật ngày nay phải tham gia vào các vấn đề đương đại. Tuy nhiên, có những khó khăn nhất định đối với người họa sỹ: 1. Lịch sử được viết về quá khứ, và lịch sử thường không dễ hiểu đối với những cái đương thời mà đó có thể là những vấn đề quan trọng và tên tuổi nổi tiếng. 2. Tranh quá mực thước, không cho phép thực hiện một công việc rất khác nhau trong cùng một khoảng thời gian: ví dụ, Rubens, Rembrandt và Vermeer. 3. Lịch sử nghệ thuật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phong cách: ta hãy so sánh sách được viết vào những năm 1940 và hiện nay. 4. Khi phân hạng nghệ sỹ về tầm quan trọng của họ, nhà sử học hình như đôi lúc nhận thấy rằng chỉ các tên tuổi lớn mới làm cho ngày nay chú ý đến. Những nghệ sỹ lớn thường nổi trội theo các cách nhất định, tuy vậy họ cũng có những sở đoản hay thiếu sót như mọi người thôi. Ngoài cái mác “thiên tài” của những nghệ sỹ này, người học còn phải hiểu được những vấn đề thực tế của họ. 5. Lịch sử nghệ thuật còn đề cập đến những khái niệm chưa rõ ràng và có tầm quan trọng thứ yếu khi sử dụng thực tế tranh họa. Những vấn đề quan trọng đối với người nghệ sỹ như sáng tạo ra một hiện thực trong hội họa, đem lại phương hướng, công việc và ý nghĩa cho cuộc đời của mình, thì lại đòi hỏi một phương pháp tiếp cận khác. 6. Viết là một bài tập bằng chữ, còn người họa sỹ tư duy về những cái dễ nhìn thấy hơn. Đó là nguyên nhân mà vì sao mà người họa sỹ hiện nay thường không đọc quảng cáo phòng tranh hay báo chí: chỉ vì họ ít dùng chúng mà thôi. Nghệ thuật phương Tây: quá trình phát triển bốn mặt Mặc dù không trình bày bất kỳ một vấn đề riêng nào, mà đôi chỗ lại quá giản đơn, phương pháp tiếp cận của Brian Thomas chỉ có mục đích lý giải hội họa theo góc độ của hội họa. Ông đã phân loại lịch sử hội họa châu Âu thành bốn giai đoạn chồng chéo nhau: Thiết kế đường nét Tìm ra qua mối quan hệ giữa độ đậm nhạt và nét phác thảo. Điểm nổi bật giữa quá trình suy tàn của Đế chế La Mã và thời đại Phục Hưng, có thể là hiện thực hoặc không hiện thực (Gothic Flemish). Yếu tố dễ nhận biết khác với cái dễ lừa ảo giác. Bản rập khuôn và các biểu tượng phi cá nhân thường được dùng. Nét phác được nhấn bởi sự thay đổi độ đậm nhạt. Các kiểu vẽ có ở mọi chỗ. Phổ biến lối tường thuật khi nét đặc trưng không thích hợp với cách kể chuyện bị bỏ qua. Hình ẩn mang tính quan trọng. Nét vẽ bút lông chỉ sử dụng khi minh họa (không như nghệ thuật vùng Viễn Đông). Quá trình phát triển từ thời kỳ cuối của chế độ La mã đến giai đoạn Byzantine và Gothic không dựa vào việc quan sát trực tiếp. Các biểu tượng bị xuyên tạc do ảnh hưởng tôn giáo. Các danh họa nổi tiếng xuất hiện vào cuối thời kỳ này là: Jan van Eyck. Vẽ trực tiếp từ các yếu tố thiên nhiên, lấy ảo giác từ không gian và kiểu vẽ mầu nhạt, mối quan hệ màu sắc. Vẽ theo gam màu sáng và độ đậm nhạt bằng chất màu (có thể là chất nhũ sơn dầu pha trứng) với nước bóng có độ trong suốt nhiều hay ít vẽ các kiểu gam màu sáng và nửa nhạt trong các lớp màng mỏng bằng sơn tối. Holbein. Vẽ theo cách hiểu của mình bằng đường nét viền hết sức giản đơn và tinh tế. Đường nét là các đường ngắn nhạy với những thay đổi về hướng của mặt phẳng. Nét phẳng và chất lượng thực tế mặt vải. Thiết kế hình thức Gồm chiều thứ ba, thường từ đối âm đến thiết kế đường nét. Gồm cả trang trí và miêu tả. Nét hoa văn tinh tế đan xen trong không gian, lúc nhanh, lúc chậm, có khi dừng. Người họa sỹ nghiên cứu thiên nhiên để tạo ra kiểu cách trong không gian, quan hệ với nó theo nhịp điệu. Sử dụng màu sắc và đường nét, đường nét là yếu tố mặt cắt và trục. Các danh họa nổi tiếng xuất hiện vào cuối thời kỳ này là: Cimabue và Duccio đã đổi mới phong cách Byzantine. Giotto và Cavallini áp dụng thiết kế mẫu. Giotto quan sát kỹ thiên nhiên và dùng thiết kế mẫu để tạo ra hoạt cảnh sống động. Masaccio pha chế đường nét của Giotto, sử dụng gam sắc tăng dần để đưa hình vào hiện thực. Gam sắc màu cục bộ được nén lại. Piero della Francesco dùng cách trang trí. Điểm nén được kiểm soát. Hình ảnh tĩnh. Signorelli. Cũng như Masaccio, nhưng ông thường lấy khuôn mẫu qua các gam màu đậm và nhạt, khuếch trương đ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tranh sơn dầu mỹ thuật đương đại kiến thức mỹ thuật danh họa tác phẩm hội họa mỹ thuật truyền thôngTài liệu có liên quan:
-
Tranh biếm họa trào phúng của họa sỹ Pawel Kuczynski
10 trang 349 0 0 -
Một số tác giả, tác phẩm của hội họa cách mạng Việt Nam
39 trang 99 0 0 -
7 trang 88 0 0
-
10 trang 64 0 0
-
Sơ lược về Mỹ thuật thời Trần (1226-1400)
10 trang 63 0 0 -
CHÂN DUNG HỌA SỸ NGUYỄN GIA TRÍ
3 trang 53 1 0 -
TRANH GƯƠNG CUNG ĐÌNH MỸ THUẬT HUẾ
7 trang 49 0 0 -
MỖI BỨC TRANH MỸ THUẬT - MỘT TẤM LÒNG
11 trang 48 0 0 -
QUANG LONG TỰ CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC ĐỘC ĐÁO
5 trang 48 0 0 -
ĐÔI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT MỸ THUẬT SƠN MÀI VIỆT NAM
8 trang 46 0 0 -
5 trang 44 0 0
-
CON ĐƯỜNG GỐM SỨ MỸ THUẬT-TỪ Ý TƯỞNG ĐẾN HIỆN THỰC
7 trang 43 0 0 -
CON CHUỘT TRÊN GỐM CỔ MỸ THUẬT
6 trang 43 0 0 -
NỖI NIỀM TRONG TRANH NGUYỄN HỒNG PHI
5 trang 42 0 0 -
CHÙA THẦY ĐỘC ĐÁO NÉT KIẾN TRÚC XỨ ĐOÀI XƯA
6 trang 41 0 0 -
MỸ THUẬT CUỐI ĐỜI MANG TÊN 'CARNET DE ĐÀO ĐỨC'
5 trang 40 0 0 -
CỐ HOẠ SĨ NGUYỄN THUỶ TUÂN - CUỘC ĐỜI VÀ NGHỆ THUẬT
5 trang 40 1 0 -
Tạp chí Thông tin - Số 25+26 (1/2009)
68 trang 40 0 0 -
TEM TẾT VIỆT NAM ĐÓN CÁC NĂM SỬU
5 trang 39 0 0 -
MỸ THUẬT ỨNG DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
10 trang 39 0 0