Liệt phân kỳLiệt phân kỳ là một rối loạn vận nhãn ít gặp và hiếm trên thực tế lâm sàng. Triệu chứng điển hình là ở người già thấy song thị xuất hiện đột ngột. Song thị xuất hiện khi nhìn xa nhưng biến mất khi nhìn gần. Cơ chế hoạt động phân kỳ còn nhiều điểm đáng bàn cãi. Nghiên cứu điện cơ cho thấy có mối liên quan giữa hoạt động phân kỳ với những xung quanh hoạt động của cơ trực ngoài (LR). Sự tồn tại và vị trí của trung tâm phân kỳ đến nay vẫn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Liệt phân kỳ - là một rối loạn vận nhãn Liệt phân kỳLiệt phân kỳ là một rối loạn vận nhãn ít gặp và hiếm trên thực tế lâm sàng. Triệuchứng điển hình là ở người già thấy song thị xuất hiện đột ngột. Song thị xuất hiệnkhi nhìn xa nhưng biến mất khi nhìn gần.Cơ chế hoạt động phân kỳ còn nhiều điểm đáng bàn cãi. Nghiên cứu điện cơ chothấy có mối liên quan giữa hoạt động phân kỳ với những xung quanh hoạt độngcủa cơ trực ngoài (LR). Sự tồn tại và vị trí của trung tâm phân kỳ đến nay vẫn cònđang được nghiên cứu, nhưng nó đã được thừa nhận là có ở một số nơi và chủ yếuở não giữa và cầu não, nơi mà chứa trung tâm chi phối vận nhãn, chéo lớn và nhândây dạng. Nghiên cứu trên chỉ cho thấy tế bào phân kỳ nằm ở vùng tạo lưới củanão giữa ngay vùng lưng và ngoài của nhân vận nhãn.Jampolsky lý giải rằng có sự tồn tại của trung tâm phân kỳ và không cho rằng liệtphân kỳ là một biểu hiện lâm sàng. Ông cho rằng nếu liệt trung tâm phân kỳ thìbệnh nhân sẽ không có khả năng phân kỳ và như vậy chức năng hợp thị - phân kỳsẽ được chứng minh ở tất cả bệnh nhân được gọi là liệt phân kỳ bằng cách kíchthích những chức năng chưa bao giờ được sử dụng sau khi sự hợp thị đã được hồiphục bằng cách điều chỉnh lăng kính đầy đủ.Đặc điểm lâm sàngNhững triệu chứng và dấu hiệu lâm sàng được Parinaud miêu tả năm 1883 vàđược Duane giải thích kỹ năm 1899. Bielschowsky tóm tắt thành những tiêu chuẩnchẩn đoán sau: (1) song thị đồng danh (homonymous) khi nhìn xa (10 - 20 inches);(2) độ lác ổn định khi nhìn ra ngoài; (3) hết lác (orthopia) và hợp thị khi nhìn gầnvà (4) vận nhãn một mắt (duction) hoặc hai mắt (vertion) tốt.Tăng áp lực nội sọ, u nội sọ, chấn thương vùng đầu và những tổn thương mạch ởhệ thần kinh trung ương là những rối loạn thần kinh có thể phối hợp với liệt phânkỳ. Trong y văn đã báo cáo một ca sau uống Diazepam bị liệt phân kỳ. Một sốtrường hợp song thị biến mất khi nguyên sinh bệnh được giải quyết. Liệt phân kỳđã là dấu hiệu đầu tiên của một bệnh nhân liệt vận nhãn (ophthalmoplegia) với hộichứng Miller-Fisher. Liệt phân kỳ cũng có thể là một dấu hiệu độc lập và là biểuhiện của một khiếm khuyết thần kinh ở những người lớn tuổi khoẻ mạnh. Trongmột nghiên cứu theo dõi lâu dài trên 8 bệnh nhân của Krohel và cộng sự khôngcho thấy có dấu hiệu thần kinh nào xuất hiện thêm ngoài liệt phân kỳ mặc dù songthị vẫn tồn tại.Chẩn đoánThăm khám lâm sàngĐo độ lác đặc biệt lưu ý ở vị trí liếc ra ngoài để đánh giá mức độ lác không ổnđịnh. thường bệnh nhân có độ lác trong nhỏ, ổn định, thường khoảng 12 - 15PD,có thể gặp lác đến 30DP mặc dù hiếm. Khi nhìn gần thường không lác hoặc có độlác nhỏ. Khi đánh giá vận nhãn cần lưu ý vận nhãn ngang. Vận nhãn ngang vàđứng bình thường trong liệt phân kỳ những lại hạn chế trong liệt dây VI là mộtbệnh có thể nhầm với phân kỳ.Việc đánh giá chức năng của dây VI là cần thiết giúp cho việc chẩn đoán chínhxác có liệt phân kỳ hay không. Bedrossian đã giới thiệu đồ thị trường định thịchính xác để bộc lộ sự hạn chế tối thiểu vận nhãn ra ngoài và tìm kiếm rung giậtnhãn cầu khi nhìn ra ngoài tối đa để phát hiện vi liệt dây TK VI trên lâm sàng.Một liên quan quan trọng nhất là liệu liệt phân kỳ mới xuất hiện có phải là mộtbiểu hiện biệt lập không. Những bệnh nhân như vậy cần phải được khám xét vềchuyên khoa thần kinh để phát hiện những trường hợp tăng áp lực nội sọ và XQnão để phát hiện ra bất kỳ tổn thương thần kinh trung ương. Nếu việc khám xétkhông tìm ra bất thường gì thì phải theo dõi định kỳ thường xuyên. Những bệnhnhân có bất thường hoặc những triệu chứng ngày càng phát triển cần phải thămkhám có hệ thống toàn bộ hệ thần kinh.Các xét nghiệmTest đánh giá hoạt động điện cơ (horizontal saccadic velocity) bằng cách sử dụngđiện nhãn cầu để đánh giá chức năng cơ trực ngoài (có hình ảnh minh hoạ). Điệncơ giảm khi nhìn ra ngoài ở một bệnh nhân tăng áp lực nội sọ được một số tác giảxem là những triệu chứng kinh điển để phản ánh dây TKVI tối thiểu. Đỉnh điểmcủa điện cơ khi nhìn ra ngoài bình thường, cho thấy chức năng của cơ trực ngoàikhông được sửa chữa, đã được thống kê ở bệnh nhân liệt phân kỳ biệt lập.Chẩn đoán phân biệtĐại đa số các tác giả cho rằng liệt phân kỳ là một biểu hiện lâm sàng hoàn toànkhác với liệt dây VI. Biểu hiện lâm Liệt phân kỳ Liệt hai dây VI sàng Lác tăng khi liếc Không thay đổi Lác trong ra ngoài Hạn chế nhìn Vận nhãn T ốt ngoài Điện cơ khi nhìn Bình thường Giả m ra ngoài Rung giật nhãn Có khi mắt nhìn ra ...
Liệt phân kỳ - là một rối loạn vận nhãn
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 166.59 KB
Lượt xem: 28
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
liệt phân kỳ các bệnh về mắt cách chăm sóc mắt bệnh mắt của người già chăm sóc mắt cho trẻ em thuốc bổ mắtTài liệu có liên quan:
-
Giáo trình Nhãn khoa (dùng cho đào tạo bác sĩ đa khoa) - NXB Giáo Dục
164 trang 71 0 0 -
7 trang 33 0 0
-
3 trang 33 0 0
-
4 trang 32 0 0
-
5 trang 30 0 0
-
Tổn thương võng mạc ở bệnh nhân AIDS (Kỳ 2)
5 trang 29 0 0 -
Cần nhận biết sớm đục thủy tinh thể
5 trang 29 0 0 -
Điều trị viêm nội nhãn nội sinh ở trẻ em
4 trang 29 0 0 -
5 trang 26 0 0
-
3 trang 26 0 0