Danh mục tài liệu

Luận văn : ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ NHÂN TỐ SINH THÁI ĐẾN CÂY HỌ SAO - DẦU (Dipterocarpaceae) TRONG KIỂU RỪNG KÍN THƯỜNG XANH VÀ NỬA RỤNG LÁ ẨM NHIỆT ĐỚI Ở ĐỒNG NAI part 3

Số trang: 17      Loại file: pdf      Dung lượng: 2.00 MB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Gốc chặt có khả năng sinh chồi nhiều lần. Điều kiện đất ẩm mát dưới tán rừng có độ tàn che 0,5 0,6 hoặc môi trường trong các lỗ trống là tối ưu cho tái sinh chồi của dầu song nàng. Cây chồi thường hình thành dưới tán rừng sau khi khai thác hoặc dưới tán cây mẹ bị đổ gẫy do gió hay chết tự nhiên. Những nhận định về các nhân tố ảnh hưởng đến cây họ Sao - Dầu trong điều kiện nhân tạo: Nguyễn Tuấn Bình (2002)[3], đã nghiên cứu “Ảnh hưởng của một số...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luận văn : ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ NHÂN TỐ SINH THÁI ĐẾN CÂY HỌ SAO - DẦU (Dipterocarpaceae) TRONG KIỂU RỪNG KÍN THƯỜNG XANH VÀ NỬA RỤNG LÁ ẨM NHIỆT ĐỚI Ở ĐỒNG NAI part 3 Forestry.tk Phạm Văn Hường gốc chặt có đường kính từ 3 - 7 cm và chiều cao dưới 20 cm. Gốc chặt có khả năng sinh chồi nhiều lần. Điều kiện đất ẩm mát dưới tán rừng có độ tàn che 0,5 - 0,6 hoặc môi trường trong các lỗ trống là tối ưu cho tái sinh chồi của dầu song nàng. Cây chồi thường hình thành dưới tán rừng sau khi khai thác hoặc dưới tán cây mẹ bị đổ gẫy do gió hay chết tự nhiên. Những nhận định về các nhân tố ảnh hưởng đến cây họ Sao - Dầu trong điều kiện nhân tạo: Nguyễn Tuấn Bình (2002)[3], đã nghiên cứu “Ảnh hưởng của một số nhân tố sinh thái đến sinh trưởng của dầu song nàng giai đoạn 1 năm tuổi trong điều kiện vườn ươm”, đã có những kết luận như sau: (1) Yêu cầu ánh sáng của cây con Dầu song nàng ở vườn ươm thay đổi rõ rệt theo tuổi. Độ tàn che cao (50 - 75%) giai đoạn 6 tháng đầu, độ tàn che thấp (25 - 50%) từ tháng thứ 6 trở đi. (2) Kích thước bầu có ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng của cây con dầu song nàng, kích thước bầu 20*30 cm, đục 8 - 10 lỗ, có hiệu quả cao nhất cho sinh trưởng và chất lượng cây. (3) Sinh trưởng của cây con dầu song nàng cũng phụ thuộc chặt chẽ vào thành phần ruột bầu. Nếu ruột làm từ đất feralit đỏ vàng trên phiến sét và đất xám trên granit có tác dụng nâng cao sức sinh tr ưởng của cây. Đất xám trên phù sa cổ cũng có thể dùng làm ruột bầu, nhưng cần phải sử dụng bầu lớn (20*30 cm), đồng thời phải cải tạo thành phần ruột bầu bằng cách bón phân hữu cơ hoai. Hàm lượng phân hữu cơ hoai thích hợp để gieo ươm là 5% so với trọng lượng ruột bầu. (4) Hàm lượng phân tổng hợp NPK thích hợp ở 12 tháng tuổi là 3% so với trọng lượng bầu. Khi bổ sung phân tổng hợp NPK (16-16-8)3 vào hỗn hợp ruột bầu thì cần phải bón vào lúc 2 tháng tuổi trở đi. (5) Trong giai đoạn 12 tháng tuổi, dầu song nàng rất cần được bón super photphat. Super photphat có 16,5% P2O5 làm hỗn hợp ruột bầu là cần thiết. Hàm lượng phân thích hợp ở 12 tháng tuổi là 2 - 3% so với trọng lượng bầu. (6) Kích thước hạt giống trong hai tháng đầu chưa có ảnh hưởng rõ nét đến sinh trưởng của dầu song nàng, nhưng từ tháng thứ 6 trở đi kích thước cây con có sự khác biệt rất rõ rệt. Sinh trưởng của 3 Từ đây về sau gọi tắt là NPK Forestry.tk Phạm Văn Hường những cây con phát sinh từ cấp quả lớn và trung bình tỏ ra ưu thế hơn hẳn những cây con mọc từ cấp quả nhỏ.. Những đề xuất điển hình cho việc áp dụng các biện pháp nuôi d ưỡng dầu song nàng trong kiểu rừng kín thường xanh, nửa rụng lá ẩm nhiệt đới tại Đồng Nai, đã được Nguyễn Văn Thêm (1992) đề cập. Tác giả đã đề xuất một số biện pháp như sau: (1) Để đảm bảo nâng cao tái sinh tự nhiên và nuôi dưỡng có kết quả quần thể dầu song nàng, đề nghị áp dụng phương thức chặt chọn đồng đều, chặt chọn theo đám hoặc chặt dần theo đám theo kiểu mở lỗ trống. (2) Biện pháp nuôi dưỡng cây con dầu song nàng có hiệu quả tốt phải tiến hành theo 2 giai đoạn phát triển của chúng; trong đó cần tập trung chăm sóc ở giai đoạn 1 (chịu bóng) từ 1 - 4 năm. Biện pháp nuôi dưỡng chủ yếu là ngăn chặn sự cạnh tranh của cây bụi và thảm tươi, điều chỉnh độ tàn che tán rừng ổn định trong khoảng 0,5 - 0,8, nhất thiết không mở trống tán rừng. Đến giai đoạn 2 (ưa sáng) cần hạ độ tàn che tán rừng đến 0,5 - 0,6 hoặc mở ngay những lỗ trống với kích thước thích hợp từ 200 - 300 m2. (3) Trong khi chưa có những biện pháp kỹ thuật hữu hiệu để trồng rừng dầu song nàng, đề nghị chỉ nên kinh doanh quần thể dầu song nàng bằng con đường tự nhiên với sự định hướng và điều khiển bằng phương thức chặt chọn đồng đều, chặt chọn theo đám hoặc chặt dần theo đám theo kiểu mở lỗ trống. Đây l à những phương thức lâm sinh có triển vọng tốt trong việc duy trì những quần thể ưu thế dầu song nàng. 2.3. Thảo luận Ngoài những nội dung nghiên cứu trên đây, một số tác giả khác cũng mới chỉ hướng vào đánh giá thực trạng tài nguyên rừng, nghiên cứu khu hệ thực vật rừng và tài nguyên đất với mục đích quy hoạch và phục vụ định hướng phát triển kinh tế. Nhìn chung ở rừng nhiệt đới, tổ thành và mật độ cây tái sinh thường khá lớn. Những số lượng loài cây có giá trị kinh tế thường không nhiều và được chú ý hơn, còn các loài cây có giá trị kinh tế thấp thường ít được nghiên cứu, đặc biệt là đối với tái sinh ở các trạng thái rừng phục hồi sau nương rẫy. Như vậy, các công Forestry.tk Phạm Văn Hường trình nghiên cứu được đề cập ở trên đã phần nào làm sáng tỏ việc đặc điểm tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới. Qua những kết quả nghiên cứu tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng chỉ ra cho chúng ta thấy được các phương pháp nghiên cứu của một số tác giả cũng như những quy luật tái sinh ở một số nơi. Song các phương pháp được các tác giả sử dụng hầu hết l ...