Luận văn cao học: Thực trạng quản lý thu - chi của BHXH Việt Nam
Số trang: 66
Loại file: pdf
Dung lượng: 614.61 KB
Lượt xem: 24
Lượt tải: 0
Xem trước 7 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
ở Việt Nam qua các giai đoạn 1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám đến năm 1995 Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước ta đã sớm quan tâm tới chính sách BHXH, việc thực hiện chính sách BHXH được triển khai khá sớm. Những văn bản pháp luật về BHXH được lần lượt ban hành như: Sắc lệnh số 54/SL ngày 3/11/1945 của Chủ tịch chính phủ lâm thời quy định những căn cứ, điều kiện để công chức nhà nước được hưởng chế độ hưu trí; Sắc lệnh số 105/SL ngày...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luận văn cao học: Thực trạng quản lý thu - chi của BHXH Việt Nam LUẬN VĂN:Thực trạng quản lý thu - chi của BHXH Việt NamI. Một vài nét về chính sách BHXH ở Việt Nam qua các giai đoạn 1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám đến năm 1995 Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước ta đã sớm quantâm tới chính sách BHXH, việc thực hiện chính sách BHXH được triển khai khá sớm.Những văn bản pháp luật về BHXH được lần lượt ban hành như: Sắc lệnh số 54/SLngày 3/11/1945 của Chủ tịch chính phủ lâm thời quy định những căn cứ, điều kiện đểcông chức nhà nước được hưởng chế độ hưu trí; Sắc lệnh số 105/SL ngày 14/06/1946của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ấn định việc cấp hưu bổng cho côngchức Nhà nước; Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/05/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dânchủ cộng hoà trong đó có quy định cụ thể về chế độ thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn laođộng, trợ cấp hưu trí và tử tuất đối với công chức Nhà nước; Sắc lệnh số 29/SL ngày13/03/1947 và Sắc lệnh 77/SL ngày 22/05/1950 quy định các chế độ trợ cấp ốm đau,thai sản, tai nạn lao động, hưu trí, tử tuất đối với công nhân. Đối tượng BHXH lúc nàychỉ bao gồm hai đối tượng là công nhân và viên chức Nhà nước, chính sách BHXH baogồm các chế độ: thai sản, ốm đau, tai nạn lao động, hưu trí và tử tuất. Sau khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, thi hành Hiến phápnăm 1959, Hộiđồng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân,viên chức Nhà nước (kèm theo Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961). Theo Điều lệ tạmthời, quỹ BHXH được chíh thứuc thành lập và thuộc vào Ngân sách Nhà nước. Các cơquan, doanh nghiệp Nhà nước phải nộp một tỉ lệ phần trăm nhất định so với tổng quĩlương, công nhân viên chức Nhà nước không phải đóng góp cho quỹ BHXH. Các chếđộ BHXH được thực hiện gồm: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp,mất sức lao động, hưu trí và tử tuất. Trong thời kỳ từ năm 1950 tới năm 1995, có thể chia ra làm ba giai đoạn sau: - Thời kỳ 1950 tới năm 1962: tình hình kinh tế, tài chính giai đoạn này khó khănnên quỹ BHXH chưa được thành lập; về chế độ BHXH chỉ mới được thực hiện hai chếđộ là: hưu trí và nghỉ mất sức. Mức hưởng còn mang tính bình quân với tinh thần chủyếu là đồng cam, cộng khổ, chưa mang tính chất lâu dài. Các khoản chi về hưu trí vàmất sức lao động còn lẫn lộn với tiền lương nên còn rất khó khăn trong công tác hạchtoán. Toàn bộ chi phí cho hoạt động BHXH được lấy từ nguồn chi Ngân sách Nhà nước,công nhân viên chức khi được hưởng trợ cấp BHXH chỉ được hưởng trợ cấp một lần,với mức hưởng bằng 1 năm công tác được một tháng lương, tối đa không quá 6 thánglương (theo điều 35 Sắc lệnh 77/SL quy định). - Thời kỳ từ năm 1962 cho tới quý II năm 1964: giai đoạn này được đánh dấubằng việc ban hành Điều lệ tạm thời gắn liền với việc quản lý sự nghiệp BHXH củaTổng Công đoàn Việt Nam (hiện nay là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam), theo quyđịnh thì Tổng Công đoàn Việt Nam chịu trách nhiệm thực hiện sự nghiệp BHXH, quảnlý việc thực hiện 6 chế độ theo Điều lệ tạm thời (bao gồm các chế độ: ốm đau, hưu trí,thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tử tuất và mất sức lao động). Cũng theoĐiều lệ tạm thời này, quỹ BHXH đã được chính thức thành lập và thuộc vào Ngân sáchNhà nước, những người lao động tham gia BHXH không phải đóng góp vào quỹBHXH, những đơn vị sử dụng lao động chỉ phải nộp một tỷ lệ nhất định so với tổng quỹlương tháng dùng để chi trả cho những người lao động trong đơn vị. - Thời kỳ từ quý II năm 1964 tới năm 1995: giai đoạn này được đánh dấu bằngviệc Chính phủ ban hành Nghị định 31/CP ngày 20/3/1963 giao trách nhiệm quản lý sựnghiệp BHXH cho 2 tổ chức là: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức và thựchiện 3 chế độ ngắn hạn là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; BộNội vụ (nay là bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) quản lý và thực hiện 3 chế độ dàihạn còn lại. Ngày 10/07/1965, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 62/CP giao tráchnhiệm quản lý một phần quỹ BHXH cho Bộ Nội vụ. Chính phủ ban hành Nghị định 43/SL ngày 22/06/1993, quy định tạm thời về cácchế độ BHXH, đây là một bước đệm để trước hết nhằm xoá bỏ tư duy bao cấp tronghoạt động của BHXH. Nghị định này đã quy định rõ đối tượng tham gia, đối tượngđược hưởng, các chế độ, nguồn hình thành quỹ BHXH; Nghị định này ra đời phù hợpvới nguyện vọng của người lao động ở các thành phần kinh tế và phù hợp với công cuộcđổi mới kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên, do tình hình kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, sốlượng đối tượng được hưởng chính sách BHXH lại đông, vì vậy chính sách BHXH nàycòn nhiều hạn chế, thể hiện ở một số điểm sau đây: + Các chế độ, chính sách BHXH được quản lý vẫn phân tán cho hai hệ thốngthực hiện. Hệ thống thứ nhất quản lý các chế độ ngắn hạn do Tổng Công đoàn ViệtNam quản lý với ba chế độ (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp); hệthống thứ hai quản lý cá ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luận văn cao học: Thực trạng quản lý thu - chi của BHXH Việt Nam LUẬN VĂN:Thực trạng quản lý thu - chi của BHXH Việt NamI. Một vài nét về chính sách BHXH ở Việt Nam qua các giai đoạn 1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám đến năm 1995 Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước ta đã sớm quantâm tới chính sách BHXH, việc thực hiện chính sách BHXH được triển khai khá sớm.Những văn bản pháp luật về BHXH được lần lượt ban hành như: Sắc lệnh số 54/SLngày 3/11/1945 của Chủ tịch chính phủ lâm thời quy định những căn cứ, điều kiện đểcông chức nhà nước được hưởng chế độ hưu trí; Sắc lệnh số 105/SL ngày 14/06/1946của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ấn định việc cấp hưu bổng cho côngchức Nhà nước; Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/05/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dânchủ cộng hoà trong đó có quy định cụ thể về chế độ thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn laođộng, trợ cấp hưu trí và tử tuất đối với công chức Nhà nước; Sắc lệnh số 29/SL ngày13/03/1947 và Sắc lệnh 77/SL ngày 22/05/1950 quy định các chế độ trợ cấp ốm đau,thai sản, tai nạn lao động, hưu trí, tử tuất đối với công nhân. Đối tượng BHXH lúc nàychỉ bao gồm hai đối tượng là công nhân và viên chức Nhà nước, chính sách BHXH baogồm các chế độ: thai sản, ốm đau, tai nạn lao động, hưu trí và tử tuất. Sau khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, thi hành Hiến phápnăm 1959, Hộiđồng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân,viên chức Nhà nước (kèm theo Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961). Theo Điều lệ tạmthời, quỹ BHXH được chíh thứuc thành lập và thuộc vào Ngân sách Nhà nước. Các cơquan, doanh nghiệp Nhà nước phải nộp một tỉ lệ phần trăm nhất định so với tổng quĩlương, công nhân viên chức Nhà nước không phải đóng góp cho quỹ BHXH. Các chếđộ BHXH được thực hiện gồm: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp,mất sức lao động, hưu trí và tử tuất. Trong thời kỳ từ năm 1950 tới năm 1995, có thể chia ra làm ba giai đoạn sau: - Thời kỳ 1950 tới năm 1962: tình hình kinh tế, tài chính giai đoạn này khó khănnên quỹ BHXH chưa được thành lập; về chế độ BHXH chỉ mới được thực hiện hai chếđộ là: hưu trí và nghỉ mất sức. Mức hưởng còn mang tính bình quân với tinh thần chủyếu là đồng cam, cộng khổ, chưa mang tính chất lâu dài. Các khoản chi về hưu trí vàmất sức lao động còn lẫn lộn với tiền lương nên còn rất khó khăn trong công tác hạchtoán. Toàn bộ chi phí cho hoạt động BHXH được lấy từ nguồn chi Ngân sách Nhà nước,công nhân viên chức khi được hưởng trợ cấp BHXH chỉ được hưởng trợ cấp một lần,với mức hưởng bằng 1 năm công tác được một tháng lương, tối đa không quá 6 thánglương (theo điều 35 Sắc lệnh 77/SL quy định). - Thời kỳ từ năm 1962 cho tới quý II năm 1964: giai đoạn này được đánh dấubằng việc ban hành Điều lệ tạm thời gắn liền với việc quản lý sự nghiệp BHXH củaTổng Công đoàn Việt Nam (hiện nay là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam), theo quyđịnh thì Tổng Công đoàn Việt Nam chịu trách nhiệm thực hiện sự nghiệp BHXH, quảnlý việc thực hiện 6 chế độ theo Điều lệ tạm thời (bao gồm các chế độ: ốm đau, hưu trí,thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tử tuất và mất sức lao động). Cũng theoĐiều lệ tạm thời này, quỹ BHXH đã được chính thức thành lập và thuộc vào Ngân sáchNhà nước, những người lao động tham gia BHXH không phải đóng góp vào quỹBHXH, những đơn vị sử dụng lao động chỉ phải nộp một tỷ lệ nhất định so với tổng quỹlương tháng dùng để chi trả cho những người lao động trong đơn vị. - Thời kỳ từ quý II năm 1964 tới năm 1995: giai đoạn này được đánh dấu bằngviệc Chính phủ ban hành Nghị định 31/CP ngày 20/3/1963 giao trách nhiệm quản lý sựnghiệp BHXH cho 2 tổ chức là: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức và thựchiện 3 chế độ ngắn hạn là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; BộNội vụ (nay là bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) quản lý và thực hiện 3 chế độ dàihạn còn lại. Ngày 10/07/1965, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 62/CP giao tráchnhiệm quản lý một phần quỹ BHXH cho Bộ Nội vụ. Chính phủ ban hành Nghị định 43/SL ngày 22/06/1993, quy định tạm thời về cácchế độ BHXH, đây là một bước đệm để trước hết nhằm xoá bỏ tư duy bao cấp tronghoạt động của BHXH. Nghị định này đã quy định rõ đối tượng tham gia, đối tượngđược hưởng, các chế độ, nguồn hình thành quỹ BHXH; Nghị định này ra đời phù hợpvới nguyện vọng của người lao động ở các thành phần kinh tế và phù hợp với công cuộcđổi mới kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên, do tình hình kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, sốlượng đối tượng được hưởng chính sách BHXH lại đông, vì vậy chính sách BHXH nàycòn nhiều hạn chế, thể hiện ở một số điểm sau đây: + Các chế độ, chính sách BHXH được quản lý vẫn phân tán cho hai hệ thốngthực hiện. Hệ thống thứ nhất quản lý các chế độ ngắn hạn do Tổng Công đoàn ViệtNam quản lý với ba chế độ (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp); hệthống thứ hai quản lý cá ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
quản lý bảo hiểm thu chi bảo hiểm bảo hiểm xã hội quỹ bảo hiểm luận văn bảo hiểm cao học bảo hiểm thạc sỹ bảo hiểmTài liệu có liên quan:
-
Quản lý dữ liệu thông tin người hưởng bảo hiểm xã hội
6 trang 234 0 0 -
18 trang 229 0 0
-
21 trang 229 0 0
-
32 trang 213 0 0
-
Tìm hiểu 150 tình huống pháp luật về bảo hiểm xã hội - bảo hiểm y tế: Phần 1
101 trang 205 0 0 -
Tổng quan về bảo hiểm xã hội - phần 1
10 trang 192 0 0 -
Bài tập lớn Quản lý dự án công nghệ thông tin: Quản lý dự án xây dựng phần mềm quản lý bảo hiểm
71 trang 183 1 0 -
19 trang 162 0 0
-
Mẫu giấy đề nghị tiếp tục nhận chế độ bảo hiểm xã hội
2 trang 160 0 0 -
Thông tư số 24/2007/TT-BLĐTBXH
14 trang 138 0 0