Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới trẻ thơ trong Trăng non của R.Tagore
Số trang: 68
Loại file: pdf
Dung lượng: 691.36 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 7 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới trẻ thơ trong Trăng non của R.Tagore gồm có 3 chương trình bày về R.Tagore với trẻ thơ; vẻ đẹp toàn bích của thế giới tâm hồn trẻ thơ trong Trăng non; nghệ thuật biểu hiện thế giới trẻ thơ trong Trăng non.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới trẻ thơ trong Trăng non của R.Tagore BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ÐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN AN THỤY THẾ GIỚI TRẺ THƠ TRONG TRĂNG NON CỦA R.TAGORE Chuyên ngành: Văn học nước ngoài M số: 602230 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ BÍCH THUÝ Thành Phố Hồ Chí Minh- 2007 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: 1.1. Ấn Độ là một trong những nền văn hoá lớn của nhân loại, có ảnh hưởng rất nhiều đến các nước khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Văn hoá Ấn Độ mang tính triết lí và nhân văn sâu sắc, đạt nhiều thành tựu và vươn đến những đỉnh cao rực rỡ ở nhiều thể loại. 1.2. Một trong những đỉnh cao của văn học Phục hưng Ấn Độ là đại thi hào Rabindranath Tagore (1861- 1941). Ông được mệnh danh là “ ngôi sao sáng của Ấn Độ phục hưng”, “ người lính canh vĩ đại” của đất nước Ấn Độ. Sau hơn bảy mươi năm lao động miệt mài, R. Tagore đã để lại cho nhân loại một di sản đồ sộ các tác phẩm văn học nghệ thuật phong phú và đa dạng: 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, hơn 2000 ca khúc( trong đó có quốc ca Ấn Độ), 63 tập tiểu luận và gần 3000 nghìn bức tranh. Ông được coi là biểu tượng của văn hoá Ấn Độ. Với những thành tựu và đóng góp cho văn học dân tộc, ông đã tạo dựng nên một thời đại Tagore bên cạnh các khái niệm thời đại Vê-đa, thời đại sử thi... M. Gandhi tụng xưng ông là Gurudêva – bậc Thánh sư vĩ đại, người dẫn dắt tinh thần và hướng dẫn tâm linh Ấn Độ. Năm 1913, Tagore là người Châu Á đầu tiên được giải thưởng Nobel văn chương cho tập Thơ Dâng ( Gitanjali). Với tập thơ này, ông được xem là một phát hiện của thơ ca thế kỉ, là “ kì công thứ hai của tạo hoá sau Kalidasa” trong văn học Ấn, “ một biểu tượng vĩ đại phối hợp trong mình hai nguồn tinh tuý Á – Au”. 1.3. Ở Viêt Nam, bạn đọc biết đến Tagore khá sớm nhưng không nhiều như họ đã từng biết đến V. Hugo, Balzac, W. Shakespeare hay Lỗ Tấn… Tuy nhiên, từ năm 1984, sau những cố gắng tâm huyết của nhiều nhà Ấn Độ học Việt Nam mà tiêu biểu là các giáo sư Cao Huy Đỉnh, Lưu Đức Trung, văn học Ấn đã chính thức được đưa vào giảng dạy trong hệ thống các trường trung học, cao đẳng, đại học, sau đại học… Riêng ở bậc trung học cơ sở, tác phẩm được giới thiệu giảng dạy là bài thơ Mây và sóng, trích trong tập Trăng non. Đây là tập thơ viết cho thiếu nhi , thuộc ba nội dung chính trong sáng tạo thơ ca của Tagore. Để khám phá giá trị nghệ thuật của mảng thơ này , chúng tôi đã chọn đề tài luận văn “ Thế giới trẻ thơ trong Trăng non của R.Tagore” nhằm hai mục đích: Thứ nhất, có được cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về con ngườ,i tài năng và tư tưởng nghệ thuật của Tagore. Ông không chỉ là “nhà thơ trí tuệ muôn màu”[42, tr. 217], “nhà thơ tình nổi tiếng”[ 45, tr. 849] mà ông còn là nhà thơ của tuổi măng non, người thầy vĩ đại của trẻ thơ Ấn Độ. Thứ hai, góp phần thiết thực hơn cho công việc nghiên cứu và giảng dạy thơ Tagore. 2. Lịch sử vấn đề: Năm 13 tuổi, với tập thơ Bông hoa rừng in trên tạp chí Bharati ( 1876), R. Tagore đã nổi tiếng trên văn đàn Ấn Độ. Đến năm 1913, khi Thơ Dâng được trao giải Nobel thì Tagore thật sự trở thành một hiện tượng văn học của Ấn Độ và nhiều nước trên thế giới. Năm 1909, Tagore xuất bản tập thơ viết cho trẻ em gồm 40 bài, có tên Sisu( trẻ thơ). Năm 1915, ông tiến hành dịch tập thơ từ tiếng Bengali sang tiếng Anh đặt tên là The Cressent Moon ( Trăng non). Tờ The Golbe đã nhận xét tập thơ là: “a revelation more profound and more subtle than that in the Gitanjali ( một sự khám phá sâu sắc và tinh tế, huyền ảo hơn trong Thơ Dâng)[chuyển dẫn từ 65, tr.3], còn tờ The Nation của Anh thì nhận thấy đây là “a vision of childhood which is only paralleded in our literature by the work of William Blake” ( một trí tưởng tượng về tuổi thơ tương tự như những tác phẩm của William Blake trong nền văn học của chúng ta) [ chuyển dẫn từ 65, tr. 3]. Như vậy, khi Trăng non ra đời, nó đã mở ra một phương diện khác trong tài năng sáng tạo nghệ thuật của Tagore khiến cho những nhà nghiên cứu, những độc giả hâm mộ thơ ông chú ý một cách đặc biệt đến thi phẩm dành riêng cho trẻ thơ này. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi điểm qua một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về tập thơ Trăng non ở Việt Nam. 2.1. Công trình nghiên cứu của những nhà nghiên cứu Tagore học ở Việt Nam: Từ những năm 1961, giáo sư Cao Huy Đỉnh, một dịch giả có uy tín về thơ Tagore, khi viết lời giới thiệu cho bản dịch Thơ Tagore đã nhận xét khái quát về tập thơ Trăng non: “ đó là những bài thơ hết sức hồn nhiên trong sáng, những bức tranh mĩ lệ về tâm lí nhi đồng”[17, tr.29]. Theo Cao Huy Đỉnh, chính sự trong sáng, hồn nhiên của trẻ đã giúp Tagore biểu hiện “ những triết lí về cuộc đời” một cách sâu sắc và tinh tế. Đồng thời ông cũng nhấn mạnh đến đặc điểm nghệ thuật “ trí tưởng tượng phong phú” của Tagore “ đã khám phá một thế giới thần tiên và nghệ sĩ trong tâm hồn em bé”[ 17,tr. 29] . Nhận xét của nhà nghiên cứu, dịch giả Đào Xuân Quý chú ý đến “ ngôn ngữ thích hợp và vô cùng phong phú” mà R. Tagore đã sử dụng trong Trăng non. Ông đã chỉ ra sự khác biệt độc đáo của Tagore và V. Hugo trong những thi phẩm viết về trẻ thơ: “ Nhà thơ Ấn Độ đi vào thế giới của trẻ con với một tâm trạng hoàn toàn khác biệt. Thơ về trẻ em của Tagore trong sáng, hồn nhiên và chân thực. Ông tỏ ra am hiểu tâm hồn kì diệu của các em và để mô tả cái thế giới trẻ thơ này, Tagore đã dùng ngôn ngữ thích hợp vô cùng phong phú. Nhưng mặt khác, nếu đọc kĩ ta sẽ thấy rằng thơ viết cho trẻ em của Tagore cũng là loại thơ có nhiều suy nghĩ và gắn liền với thực tiễn đau buồn của đất nước Ấn Độ” [42, tr. 211]. Trong cảm nhận của PGS. Lưu Đức Trung, Trăng non lại là những ấn tượng sâu sắc về cách sử dụng hình ảnh và những câu chuyện kể phù hợp với các em. Theo ông, chính ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới trẻ thơ trong Trăng non của R.Tagore BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ÐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN AN THỤY THẾ GIỚI TRẺ THƠ TRONG TRĂNG NON CỦA R.TAGORE Chuyên ngành: Văn học nước ngoài M số: 602230 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ BÍCH THUÝ Thành Phố Hồ Chí Minh- 2007 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: 1.1. Ấn Độ là một trong những nền văn hoá lớn của nhân loại, có ảnh hưởng rất nhiều đến các nước khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Văn hoá Ấn Độ mang tính triết lí và nhân văn sâu sắc, đạt nhiều thành tựu và vươn đến những đỉnh cao rực rỡ ở nhiều thể loại. 1.2. Một trong những đỉnh cao của văn học Phục hưng Ấn Độ là đại thi hào Rabindranath Tagore (1861- 1941). Ông được mệnh danh là “ ngôi sao sáng của Ấn Độ phục hưng”, “ người lính canh vĩ đại” của đất nước Ấn Độ. Sau hơn bảy mươi năm lao động miệt mài, R. Tagore đã để lại cho nhân loại một di sản đồ sộ các tác phẩm văn học nghệ thuật phong phú và đa dạng: 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, hơn 2000 ca khúc( trong đó có quốc ca Ấn Độ), 63 tập tiểu luận và gần 3000 nghìn bức tranh. Ông được coi là biểu tượng của văn hoá Ấn Độ. Với những thành tựu và đóng góp cho văn học dân tộc, ông đã tạo dựng nên một thời đại Tagore bên cạnh các khái niệm thời đại Vê-đa, thời đại sử thi... M. Gandhi tụng xưng ông là Gurudêva – bậc Thánh sư vĩ đại, người dẫn dắt tinh thần và hướng dẫn tâm linh Ấn Độ. Năm 1913, Tagore là người Châu Á đầu tiên được giải thưởng Nobel văn chương cho tập Thơ Dâng ( Gitanjali). Với tập thơ này, ông được xem là một phát hiện của thơ ca thế kỉ, là “ kì công thứ hai của tạo hoá sau Kalidasa” trong văn học Ấn, “ một biểu tượng vĩ đại phối hợp trong mình hai nguồn tinh tuý Á – Au”. 1.3. Ở Viêt Nam, bạn đọc biết đến Tagore khá sớm nhưng không nhiều như họ đã từng biết đến V. Hugo, Balzac, W. Shakespeare hay Lỗ Tấn… Tuy nhiên, từ năm 1984, sau những cố gắng tâm huyết của nhiều nhà Ấn Độ học Việt Nam mà tiêu biểu là các giáo sư Cao Huy Đỉnh, Lưu Đức Trung, văn học Ấn đã chính thức được đưa vào giảng dạy trong hệ thống các trường trung học, cao đẳng, đại học, sau đại học… Riêng ở bậc trung học cơ sở, tác phẩm được giới thiệu giảng dạy là bài thơ Mây và sóng, trích trong tập Trăng non. Đây là tập thơ viết cho thiếu nhi , thuộc ba nội dung chính trong sáng tạo thơ ca của Tagore. Để khám phá giá trị nghệ thuật của mảng thơ này , chúng tôi đã chọn đề tài luận văn “ Thế giới trẻ thơ trong Trăng non của R.Tagore” nhằm hai mục đích: Thứ nhất, có được cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về con ngườ,i tài năng và tư tưởng nghệ thuật của Tagore. Ông không chỉ là “nhà thơ trí tuệ muôn màu”[42, tr. 217], “nhà thơ tình nổi tiếng”[ 45, tr. 849] mà ông còn là nhà thơ của tuổi măng non, người thầy vĩ đại của trẻ thơ Ấn Độ. Thứ hai, góp phần thiết thực hơn cho công việc nghiên cứu và giảng dạy thơ Tagore. 2. Lịch sử vấn đề: Năm 13 tuổi, với tập thơ Bông hoa rừng in trên tạp chí Bharati ( 1876), R. Tagore đã nổi tiếng trên văn đàn Ấn Độ. Đến năm 1913, khi Thơ Dâng được trao giải Nobel thì Tagore thật sự trở thành một hiện tượng văn học của Ấn Độ và nhiều nước trên thế giới. Năm 1909, Tagore xuất bản tập thơ viết cho trẻ em gồm 40 bài, có tên Sisu( trẻ thơ). Năm 1915, ông tiến hành dịch tập thơ từ tiếng Bengali sang tiếng Anh đặt tên là The Cressent Moon ( Trăng non). Tờ The Golbe đã nhận xét tập thơ là: “a revelation more profound and more subtle than that in the Gitanjali ( một sự khám phá sâu sắc và tinh tế, huyền ảo hơn trong Thơ Dâng)[chuyển dẫn từ 65, tr.3], còn tờ The Nation của Anh thì nhận thấy đây là “a vision of childhood which is only paralleded in our literature by the work of William Blake” ( một trí tưởng tượng về tuổi thơ tương tự như những tác phẩm của William Blake trong nền văn học của chúng ta) [ chuyển dẫn từ 65, tr. 3]. Như vậy, khi Trăng non ra đời, nó đã mở ra một phương diện khác trong tài năng sáng tạo nghệ thuật của Tagore khiến cho những nhà nghiên cứu, những độc giả hâm mộ thơ ông chú ý một cách đặc biệt đến thi phẩm dành riêng cho trẻ thơ này. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi điểm qua một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về tập thơ Trăng non ở Việt Nam. 2.1. Công trình nghiên cứu của những nhà nghiên cứu Tagore học ở Việt Nam: Từ những năm 1961, giáo sư Cao Huy Đỉnh, một dịch giả có uy tín về thơ Tagore, khi viết lời giới thiệu cho bản dịch Thơ Tagore đã nhận xét khái quát về tập thơ Trăng non: “ đó là những bài thơ hết sức hồn nhiên trong sáng, những bức tranh mĩ lệ về tâm lí nhi đồng”[17, tr.29]. Theo Cao Huy Đỉnh, chính sự trong sáng, hồn nhiên của trẻ đã giúp Tagore biểu hiện “ những triết lí về cuộc đời” một cách sâu sắc và tinh tế. Đồng thời ông cũng nhấn mạnh đến đặc điểm nghệ thuật “ trí tưởng tượng phong phú” của Tagore “ đã khám phá một thế giới thần tiên và nghệ sĩ trong tâm hồn em bé”[ 17,tr. 29] . Nhận xét của nhà nghiên cứu, dịch giả Đào Xuân Quý chú ý đến “ ngôn ngữ thích hợp và vô cùng phong phú” mà R. Tagore đã sử dụng trong Trăng non. Ông đã chỉ ra sự khác biệt độc đáo của Tagore và V. Hugo trong những thi phẩm viết về trẻ thơ: “ Nhà thơ Ấn Độ đi vào thế giới của trẻ con với một tâm trạng hoàn toàn khác biệt. Thơ về trẻ em của Tagore trong sáng, hồn nhiên và chân thực. Ông tỏ ra am hiểu tâm hồn kì diệu của các em và để mô tả cái thế giới trẻ thơ này, Tagore đã dùng ngôn ngữ thích hợp vô cùng phong phú. Nhưng mặt khác, nếu đọc kĩ ta sẽ thấy rằng thơ viết cho trẻ em của Tagore cũng là loại thơ có nhiều suy nghĩ và gắn liền với thực tiễn đau buồn của đất nước Ấn Độ” [42, tr. 211]. Trong cảm nhận của PGS. Lưu Đức Trung, Trăng non lại là những ấn tượng sâu sắc về cách sử dụng hình ảnh và những câu chuyện kể phù hợp với các em. Theo ông, chính ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Luận văn Thạc sĩ Văn học Trăng non của R.Tagore Thế giới trẻ thơ trong Trăng non R.Tagore với trẻ thơ Tâm hồn trẻ thơ trong Trăng non Nghệ thuật biểu hiện thế giới trẻ thơTài liệu có liên quan:
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát ca dao - dân ca Bến Tre
140 trang 154 0 0 -
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều dưới góc nhìn trần thuật học
93 trang 127 0 0 -
165 trang 85 0 0
-
86 trang 76 0 0
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đề tài chiến tranh trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu
135 trang 52 1 0 -
132 trang 45 0 0
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Tiểu thuyết Garganchuya (Rabơle) từ góc nhìn thi pháp thể loại
133 trang 43 0 0 -
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm thơ Bằng Việt
125 trang 42 0 0 -
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thơ Trần Đăng Khoa dưới góc nhìn tư duy nghệ thuật
110 trang 42 0 0 -
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Sự ảnh hưởng của thơ ca dân gian trong thơ Tố Hữu
135 trang 41 0 0