Danh mục tài liệu

Mô hình định giá tài sản hợp lý tại Việt Nam

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 378.26 KB      Lượt xem: 26      Lượt tải: 0    
Xem trước 1 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài nghiên cứu này ngoài kiểm chứng, so sánh các mô hình như CAPM, FF3 theo phương pháp mới, còn đề xuất mô hình mới trong đó có yếu tố thanh khoản đóng vai trò trung tâm. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của tài liệu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mô hình định giá tài sản hợp lý tại Việt Nam TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 17, SỐ Q2 - 2014<br /> MÔ HÌNH ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN HỢP LÝ TẠI VIỆT NAM<br /> THE RATIONAL ASSET PRICING MODEL IN VIETNAM<br /> Trần Viết Hoàng<br /> ĐHQG-HCM - tranviethoangvnu@yahoo.com<br /> Nguyễn Ngọc Huy<br /> Trường Đại học Kinh tê ́- Luật, ĐHQG-HCM - nnhuy@uel.edu.vn<br /> Nguyễn Anh Phong<br /> Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG-HCM - phongna@uel.edu.vn<br /> (Bài nhận ngày 03 tháng 4 năm 2014, hoàn chỉnh sửa chữa ngày 21 tháng 8 năm 2014)<br /> TÓM TẮT<br /> Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu thực chứng kiểm chứng các mô hình định giá tài sản như<br /> CAPM, mô hình ba nhân tố, bốn nhân tố, các kiểm chứng được thực hiện trên các thị trường chứng<br /> khoán trong và ngoài nước. Các công ty được chọn phải niêm yết liên tục ít nhất là 24 tháng tính<br /> đến năm 2011, các công ty có giá trị sổ sách < 0 sẽ bị loại, tính từ lúc niêm yết cho đến hết năm<br /> 2011. Theo cách chọn mẫu này tính đến năm 2011 có 299 mã cổ phiếu thỏa điều kiện. Bài nghiên<br /> cứu này nhằm đánh giá tính hợp lý các mô hình định giá: CAPM, FF3 (mô hình 3 nhân tố của<br /> Fama-French), FF3 kết hợp với thanh khoản. Kết quả cho thấy tại Việt Nam, mô hình FF3 tốt hơn<br /> CAPM, FF3 khi kết hợp với thanh khoản tốt hơn FF3. Từ đó chúng tôi đề xuất áp dụng mô hình 4<br /> nhân tố trong định giá chứng khoán.<br /> Từ khóa: CAPM, Fama và French, mô hình ba nhân tố, thanh khoản, phương pháp FM,<br /> phương pháp GRS, phương pháp GMM.<br /> ABSTRACT<br /> Nowadays there are many empirical studies verifying the models of asset pricing such as the<br /> CAPM (Capital Asset Pricing Model), the Three - Factored Model (FF3), Four - Factored Model<br /> (FF4), and the testing studies on the Vietnam stock market as well as studies abroad. We selected<br /> stocks listed on Vietnam stock market which have been listed continuously at the end of 2011, stocks<br /> which have BE/ME < 0 were eliminated. Following this selection 299 stocks have been selected.<br /> This research aims to evaluate the rationality of pricing models: the CAPM, the FF3, the FF3<br /> combined with the liquidity. The findings showed that in Vietnam context, the FF3 model is more<br /> accordant than the CAPM, the model of FF3 combined with liquidity is more coincident than<br /> the FF3 model. Thus, we suggested the Four Factored Model for the case of the stock market of<br /> Vietnam.<br /> Keywords: CAPM, Fama and French, Three Factor Model, liquidity, FM method, GRS<br /> method, GMM method.<br /> <br /> Trang 63<br /> <br /> Science & Technology Development, Vol 17, No.Q2 - 2014<br /> 1. GIỚI THIỆU<br /> Hiện nay, có rất nhiều nghiên cứu đề cập và<br /> kiểm chứng các mô hình định giá tài sản trên<br /> các thị trường chứng khoán trong và ngoài nước.<br /> Mô hình định giá nào hợp lý cho đến nay vẫn<br /> còn nhiều tranh cãi, từ mô hình CAPM ban đầu<br /> cho đến nghiên cứu của Fama (đoạt giải Nobel<br /> kinh tế năm 2013). Các nghiên cứu tập trung vào<br /> các rủi ro về quy mô (đo bằng giá trị giao dịch),<br /> giá trị (đo bằng các biến như giá trị sổ sách so<br /> giá trị thị trường, giá so cổ tức). Các nghiên cứu<br /> khác thì cho rằng các rủi ro không hẳn do quy<br /> mô hay giá trị mà đơn giản là do tính đặc thù hay<br /> đặc trưng của từng nhóm cổ phiếu hay tài sản.<br /> Mặc dù tại Việt Nam cũng có các nghiên cứu<br /> đánh giá tính hợp lý của CAPM hay kiểm định<br /> sự phù hợp của FF3. Theo lý thuyết định giá tài<br /> sản, người nghiên cứu được phép bổ sung phần<br /> bù suất sinh lời của bất kỳ yếu tố nào bất thường<br /> vào trong mô hình định giá. Tuy nhiên để chứng<br /> minh phần bù yếu tố nào đưa vào mô hình sẽ<br /> tốt, người phân tích cần chứng minh: hệ số chặn<br /> (Intercept) αi 0 và phần dư của mô hình<br /> E(εi)0. Các so sánh khác như hệ số R2 hiệu<br /> chỉnh, hay kiểm định chi bình phương,…chỉ<br /> mang tính bổ sung. Hiện nay các nghiên cứu<br /> trong nước hầu như chỉ mang tính kiểm tra tính<br /> phù hợp của các mô hình định giá, như đánh giá<br /> xem mô hình ba nhân tố của Fama và French,<br /> mô hình bốn nhân tố của Carhart,…có hợp lý<br /> hay không tại thị trường chứng khoán Việt Nam.<br /> Tuy nhiên các nghiên cứu chỉ dừng lại so sánh<br /> chỉ số R2 hiệu chỉnh, và một số kiểm định khác<br /> (như kiểm định chuỗi dừng, kiểm định chi bình<br /> phương,…) bằng phương pháp OLS, trong khi<br /> phần chính để xem các mô hình có hợp lý hơn<br /> hay không thì cần kiểm chứng thống kê hệ số<br /> chặn (Intercept) αi và phần dư của mô hình E(εi)<br /> có bằng không hay không thì chưa đề cập. Cho<br /> đến ngày nay các nghiên cứu kiểm chứng các<br /> mô hình định giá như vậy có thể sử dụng ba<br /> phương pháp sau: (1) Phương pháp của Fama<br /> và MacBeth (1973), (2) phương pháp GMM<br /> <br /> Trang 64<br /> <br /> của Hansen (1982), (3) phương pháp GRS của<br /> Gibbons, Ross và Shanken năm 1989. Trong đó<br /> nổi bật là phương pháp GMM người mà cùng<br /> với Fama đoạt giải Nobel kinh tế năm 2013 bởi<br /> lẽ tính khả dụng và hợp lý của GMM. GMM đã<br /> làm cho việc đánh giá tính kinh tế của các mô<br /> hình định giá tài sản khả thi dưới các giả định<br /> thực tế hơn liên quan đến bản chất của các quá<br /> trình ngẫu nhiên chi phối sự tiến triển theo thời<br /> gian của các biến ngoại sinh. Các mô hình định<br /> g ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu có liên quan: