Danh mục tài liệu

MỘT SỐ THAO TÁC PHÂN TÍCH VĂN HỌC

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 236.45 KB      Lượt xem: 1      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tham khảo tài liệu một số thao tác phân tích văn học, tài liệu phổ thông, ôn thi đh-cđ phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
MỘT SỐ THAO TÁC PHÂN TÍCH VĂN HỌC MỘT SỐ THAO TÁC PHÂN TÍCH VĂN HỌC Ngoài những thao tác - kỹ năng như khi đọc một bài văn, bài thơ phải biết pháthiện 5 lớp nội dung của tác phẩm (đề tài, chủ đề, cảm hứng, nội dung triết lý, sắc điệuthẩm mỹ), học sinh cần có những thao tác cơ bản sau: kỹ năng phân tích – trích dẫn,kỹ năng so sánh đối chiếu, kỹ năngviết lời bình, kỹ năng liên tưởng mở rộng. Ở đây,chúng tôi chỉ nêu ra một vài ví dụ minh họa. a. Phân tích – trích dẫn: - “Xuân Diệu chọn đỏ để chọi với xanh. Hai câu dưới mới là tuyệt bút,và lại rất Việt Nam: “Những luồng run rẩy rung ring lá Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”. Đầu đoạn thơ là hoa rụng, lá úa: cuối đoạn, in trên nền trời, gây ấn tượngthị giác rất mạnh, là các nhánh cây trơ trụi, khô gầy. Tôi nói tạo ấn tượng vì câu thơ cóbảy chữ thì tới sáu chữ gợi cái khô gầy, run rẩy của cành. Đó là các chữ nhánh, khô,gầy, xương, mỏng manh. Hình ảnh khô gầy, trơ trụi sẽ gợi đến cảm giác rét mướt(cành mật mạp, ls sum sê không thể nào lại cho ta cảm nghe cái rét đựoc). XuânDiệu đã tạo đựoc cái rét thấu xương, tê tái đến những nhánh của loài cây, trước hếtbằng cái tài của ngôn ngữ, sau nữa là cái tài của lập ý: “Những luồng run rẩy rung rinh lá”. Gió thổi làm lá rung rinh, nghĩa thật chỉ có thế. Xuân Diệu đã cảnh giáchoá hiện tượng thiên nhiên này để người đọc không chỉ thu nhận cảnh sắc bằng mắt(trông thấy là rung ring) mà bằng nhiều giác quan khác. Không nói gió mà nới luồngrun rẩy tưởng như bản thân gió cũng cảm thấy lạnh, nó run rẩy, và không phải sự dichuyển của không khí (gió) làm cho lá động, mà lá rùng minh vì cảm thấy cái lạnh củagió mang tới mà rung rinh. Hiệu quả câu thơ là gợi cái rét chứ không phải tả gió bay.Cái rét ở câu này (do lá cảm) tương ứng với cái rét ở câu dưới (do cầnh cảm) tác độngvào giác quan người đọc bằng con đường trực giác. Phân tích thì dài dòng thế, chứđọc lên không giải thích gì người nghe đã muốn xuýt xoa, trước là vì rét sau là vìhay”. Vũ Quần Phương(“Thơ với lời bình”) - “Với Nguyễn Trãi, vận mệnh của đất nước, hạnh phúc của người dân,đó là điều quan trọng nhất. Tất cả tin yêu vui buồn của ông đều bắt nguồn từ đó. Cóthể nói, ông chưa bao giờ thực sự chán đời. Ông từng có câu thơ từ ý đến lời đều rấthiện đại: “Khó ngặt qua ngày, xin sống” (Bài 38) Câu thơ cô đúc và dứt khoát như một lời tuyên ngôn. Không pahỉ vì chánđời mà quay ra yêu cỏ cây sông núi. Ở ông, yêu cỏ cây sông núi với yêu đời xét chocùng vẫn là một. Đều là yêu đất nước Việt Nam, yêu cuộc sống trên đất nước ViệtNam. Không có một cái nhìn rất đẹp về cuộc sống, không thể vẽ lên cảnhbướm vờn hoa sinh động và nên thơ: “Làm sứ đi thăm tin tức xuân Lay thay cánh nhẹ mười phân. Nội hoa tốp tốp vây đòi hỏi Doanh liêu khoan khoan khéo lữa lần” (Bài 250) Càng không thể trong khi nhìn cảnh đẹp bỗng cảm thấy như khí thiêngcủa trời đất đã đông lại thành ngọc: “Tà dương bóng ngả thuở giang lâu, Thế giớ đông nên ngọc một bầu” (Bài 14) Cũng không thể có những giấc mơ kỳ diệu: “Tạc dạ nguyệt minh thiên tự thuỷ, Mộng kỳ hoàng hạc thượng tiên đàn”. (Đêm qua trăng sáng trời như nước, Mộng cỡi hạc vàng lên đàn tiên) (“Ức Traithi tập” – bài 73) Hoài Thanh (Trích “Một vài nét về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm”) b. So sánh đối chiếu So sánh đối chiếu nhằm mục đích làm cho bài văn phân tích văn học trởnên sâu sắc. Chưa biết so sánh đối chiếu xem như mới chỉ biết nhìn nhận tác phẩm ởbề mặt mà chưa biết khám phá chiều sâu của ngôn từ, nghệ thuật và nội dung tư tưởngcủa văn bản. Thao tác so sánh đối chiếu giúp ta khắc phục đựoc phân tích tác phẩmmột chiều, chỉ biết nhìn sông mà chưa biết ngắm núi, chỉ biết tả trăng mà chưa biếtchạm mây vẽ trời. So sánh đối chiếu giởi giúp người đọc cảm nhận đầy đủ cái hay, cáiđệp của văn chương lên một cái tầm mới. * Ví dụ: - … “Và tôi nghĩ rằng”: cần phải vận dụng đến phép tương xứngtrong ngôn từ thơ để giảng nghĩa hai câu thơ đẹp cảu nàng Điểm Bích: “Vằng vặc trăng mai ánh nước. Hiu hiu gió trúc ngâm sênh”. Mục “Tư liệu văn học” số 527 viết: “Bài thơ của nàng Điểm Bích diễntheo ngôn từ hiện đại thì như thế này: “Ánh trăng bổi ban mai chiếu xuống mặt hồsáng vằng vặc; gió thổi vào khóm trúc khe khẽ nghe như tiếng sao, tiếng đàn”… Nếugiảng như mục “Tư liệu văn học” này, thì vô lý quá. Buổi mai đã mọc lên, thì dù cócòn thấy mặt trăng thì chẳng còn một chút nào, bởi đã có ánh mặt trời rồi, dù mặttrăng này có bị che khuất đi nữa. Thế thì ánh trăng buồi mai làm gì còn chiếu xuốngmặt hồ vằng vặc được? Muốn giảng câu thơ trên, thì phải nhìn xuống câu thơ dưới:Gió trúc nghĩa là gió thổi qua cây trúc, thì trăng mai không thể nghĩa là “trăng buổimai”; một thi sĩ xứng đáng với tên ấy không viết ngang như thế được. Ở đây, ta hãyliên hệ với thơ Nguyễn Du, khi nàngKiều ở trong lầu xanh của mụ Tú Bà: “Thờ ơ gió trúc mưa mai, Ngẩn ngơ trăm mối, dùi mài một thân”. Mưa mai đứng một minh, có thể có nghĩa là “mưa buổi sớm mai”, nhưngđứng trong câu, trước nó có chữ gió trúc, thì nó chỉ có thể hểu là “mưa rơi xuống câymai”, không có nghĩa nào khác, Nếu Nguyễn Du muốn nói là “mưa sớm mai”, thì nhàthơ sẽ viết, chẳng hạn: “Gió chiều hờ hững mưa mai”, Ca dao Bình - Trị - Thiên đãviết theo phép tương xứng như vậy, khi nói thiếp nhớ chàng, chàng nhớ thiếp: “Ba trăng là mấy mươi hôm, Mai nam vắng trước, chiều nồm quạnh sau”. Các chữ đã liên kết khăng khít với nhau như kẹo như ...