Năng lượng hoàn nguyên : Năng lượng tái tạo KS Đặng Đình Cung
Số trang: 13
Loại file: pdf
Dung lượng: 188.08 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Hiện nay Việt nam có tỷ lệ độc lập về năng lượng là 120. Tỷ lệ đó có nghĩa là cán cân ngoại thương về năng lượng rất thuận lợi, kim ngạch nhập khẩu 100 thì xuất khẩu 120, một tỷ lệ ít quốc gia trên thế giới có thể đạt được. Ưu điểm này là nhờ dầu và khí ở các mỏ hydrocarbur ngoài khơi Biển Đông.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Năng lượng hoàn nguyên : Năng lượng tái tạo KS Đặng Đình Cung Năng lượng hoàn nguyên : Năng lượng tái tạo KS Đặng Đình Cung , Kiều bào PhápHiện nay Việt nam có tỷ lệ độc lập về năng lượng là 120. Tỷ lệ đó có nghĩalà cán cân ngoại thương về năng lượng rất thuận lợi, kim ngạch nhập khẩu100 thì xuất khẩu 120, một tỷ lệ ít quốc gia trên thế giới có thể đạt được.Ưu điểm này là nhờ dầu và khí ở các mỏ hydrocarbur ngoài khơi BiểnĐông.Nhưng ưu điểm đó sẽ không tồn tại được lâu vì ba lý do. Thứ nhất là trữlượng những mỏ hydrocarbur của ta rất eo hẹp. Thứ hai là phát triển kinhtế sẽ quy định phát triển của nhu cầu năng lượng. Với đà phát triển kinh tếkỷ lục hiện nay của nước ta thì nhu cầu về năng lượng sẽ gia tăng mạnh.Thứ ba là nước ta đang cơ giới hóa nông nghiệp và phát triển những ngànhkỹ nghệ tiêu thụ nhiều năng lượng như là xi măng, thép,... Suy ra, tiêu thụnăng lượng của nước ta gia tăng với một tỷ lệ mạnh hơn là tỷ lệ tăngtrưởng kinh tế. Vì ba nguyên do đó, chỉ trong vài năm nữa chúng ta sẽ làmột nước nhập siêu về nhiên liệu. Trung quốc đã trở nên một quốc gia nhưvậy và Indonesia cũng đang đi vào con đường đó. Hiện nay Công ty DầuKhí Việt nam đã bắt đầu đi khảo sát mỏ ở những nước bạn như là Algeria.Nhiều người tự đặt câu hỏi liệu năng lượng hoàn nguyên có thể giải quyếtvấn đề tiêu thụ năng lượng của nước ta không. Để tham luận, bài này sẽtrình bày một số năng lượng hoàn nguyên các sách báo thường đề cập đếnvà khả năng đóng góp của chúng vào nhu cầu năng lượng của nước ta.Thủy lựcThủy lực có ba công dụng : chống lũ và hạn hán, sản xuất điện và điều tiếtlưu lượng nước cho canh nông, du lịch giải trí và vận tải theo dòng sông.Vì thế mà khả năng sinh lợi của một dự án đập thủy điện không phải chivỏn vẹn ở khâu sản xuất điện.Những công trình thủy lực rất là đa dạng.Chúng ta có thể phân biệt một dự án thủy lực theo thời gian tích trữ nướctrong hồ chứa nước : một hồ có thể chứa đủ để tháo nước trong một nămhay hơn nữa, hay một tháng hay một ngày hay một vài giờ. Tùy theo khảnăng trữ nước đó và sự điều hòa của những dòng sông chảy vào hồ màchúng có thể nói rẳng công trình có dễ bị ảnh hưởng của thời tiết haykhông.Để chọn loại tua-bin của ổ phát điện thì chúng ta có thể phân biệt theochiều cao của thác nước. Những công trình có thác nước hơn một trăm métthường dùng loại tua-bin Pelton. Những công trình có thác nước từ mộttrăm mét đến vài chục mét gọi là công trình có thác vừa. Những công trìnhnày thường dùng đến tua-bin loại Francis. Những công trình có thác nướctừ vài chục mét trở xuống gọi là công trình có thác thấp. Những công trìnhnày thường dùng đến tua-bin loại Kaplan.Chúng ta cũng có thể phân biệt một dự án thủy lực theo công suất của nhàmáy điện. Ở trên thế giới có chừng hai trăm nhà máy công suất hơn 1.000MW (một triệu kilô watt) gọi là thủy điện rất lớn nhưng cũng có cả nghìncông trình lớn nhỏ từ vài trăm nghìn kilô watt đến vài trăm kilô watt (gọi làthủy điện nhỏ) và vô số công trình có công suất nhỏ hơn (gọi là thủy điệncực nhỏ).Công nghệ của những tua-bin tùy ở công suất chứ không tùy ở loại tua-bin.Những công trình thủy điện nhỏ hay cực nhỏ cần đến công nghệ xoongchảo tương đối đơn sơ. Những công trình vừa cần đến các công nghệxoong chảo, luyện kim và thủy động học tinh luyện hơn giống như côngnghệ đóng tầu trọng tải vài trăm tấn trở lên. Còn những công trình lớn hơnthì cần đến công nghệ đặc biệt của ngành thủy điện lực. Ngoài ra việc xâyđập thì cần đến những kỹ thuật xây dựng. Thường thì một xí nghiệp có hợpđồng thực hiện một dự án thủy điện chỉ quản lý và kiểm tra việc xây dựngchứ còn thực hiện thì giao công cho những xí nghiệp hay dân địa phương.Khả năng áp dụng ở Việt namTiềm năng thủy điện ở nước ta rất là phong phú. Điều đó rất là dễ hiểu.Nước ta mưa nhiều và có núi cao hiểm trở. Nước mưa rơi trên đỉnh núichảy xuống biển qua những thung lũng hẹp. Chúng ta chỉ cần xây một đậptương đối nhỏ là đủ có một trạm phát điện. Hiện nay hơn một nửa điện tiêuthụ ở Viêt nam là thủy điện.Ở những miền thượng du Tây bắc đồng bào thiểu số dùng những tua-binloại Kaplan chế tạo trong nước gắn vào một ổ phát điện vài kilô watt để cóđiện dùng trong sản xuất và sinh hoạt trong gia đình. Để dân chủ động chếtạo như vậy là một điều phung phí sức lao động và tiền của.Đáng lý ra thì chúng ta phải bắt đầu khai triển những nhà máy thủy điệnnhỏ và trung bình. Vấn đề xây đập và kênh dẫn nước hay ống dẫn nướckhông cần phải đặt ra vì kỹ sư Việt nam rất thông thạo những việc này.Khâu cần phải khai triển là bộ tua bin, phát điện và điều hành. Như nói ởtrên, công nghệ cần thiết để khai triển điện lực nhỏ và cực nhỏ thì từ đơnsơ đến đơn giản. Để tiết kiệm công thiết kế, để giảm giá thành cũng như giatăng độ tin cậy của máy, chúng ta có thể thiết kế và sản xuất những bộ cócông suất đã được tiêu chuẩn hóa từng bậc 1 kW, 5 kW, 10 kW,… cho tới10.000 kW. Chúng ta có ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Năng lượng hoàn nguyên : Năng lượng tái tạo KS Đặng Đình Cung Năng lượng hoàn nguyên : Năng lượng tái tạo KS Đặng Đình Cung , Kiều bào PhápHiện nay Việt nam có tỷ lệ độc lập về năng lượng là 120. Tỷ lệ đó có nghĩalà cán cân ngoại thương về năng lượng rất thuận lợi, kim ngạch nhập khẩu100 thì xuất khẩu 120, một tỷ lệ ít quốc gia trên thế giới có thể đạt được.Ưu điểm này là nhờ dầu và khí ở các mỏ hydrocarbur ngoài khơi BiểnĐông.Nhưng ưu điểm đó sẽ không tồn tại được lâu vì ba lý do. Thứ nhất là trữlượng những mỏ hydrocarbur của ta rất eo hẹp. Thứ hai là phát triển kinhtế sẽ quy định phát triển của nhu cầu năng lượng. Với đà phát triển kinh tếkỷ lục hiện nay của nước ta thì nhu cầu về năng lượng sẽ gia tăng mạnh.Thứ ba là nước ta đang cơ giới hóa nông nghiệp và phát triển những ngànhkỹ nghệ tiêu thụ nhiều năng lượng như là xi măng, thép,... Suy ra, tiêu thụnăng lượng của nước ta gia tăng với một tỷ lệ mạnh hơn là tỷ lệ tăngtrưởng kinh tế. Vì ba nguyên do đó, chỉ trong vài năm nữa chúng ta sẽ làmột nước nhập siêu về nhiên liệu. Trung quốc đã trở nên một quốc gia nhưvậy và Indonesia cũng đang đi vào con đường đó. Hiện nay Công ty DầuKhí Việt nam đã bắt đầu đi khảo sát mỏ ở những nước bạn như là Algeria.Nhiều người tự đặt câu hỏi liệu năng lượng hoàn nguyên có thể giải quyếtvấn đề tiêu thụ năng lượng của nước ta không. Để tham luận, bài này sẽtrình bày một số năng lượng hoàn nguyên các sách báo thường đề cập đếnvà khả năng đóng góp của chúng vào nhu cầu năng lượng của nước ta.Thủy lựcThủy lực có ba công dụng : chống lũ và hạn hán, sản xuất điện và điều tiếtlưu lượng nước cho canh nông, du lịch giải trí và vận tải theo dòng sông.Vì thế mà khả năng sinh lợi của một dự án đập thủy điện không phải chivỏn vẹn ở khâu sản xuất điện.Những công trình thủy lực rất là đa dạng.Chúng ta có thể phân biệt một dự án thủy lực theo thời gian tích trữ nướctrong hồ chứa nước : một hồ có thể chứa đủ để tháo nước trong một nămhay hơn nữa, hay một tháng hay một ngày hay một vài giờ. Tùy theo khảnăng trữ nước đó và sự điều hòa của những dòng sông chảy vào hồ màchúng có thể nói rẳng công trình có dễ bị ảnh hưởng của thời tiết haykhông.Để chọn loại tua-bin của ổ phát điện thì chúng ta có thể phân biệt theochiều cao của thác nước. Những công trình có thác nước hơn một trăm métthường dùng loại tua-bin Pelton. Những công trình có thác nước từ mộttrăm mét đến vài chục mét gọi là công trình có thác vừa. Những công trìnhnày thường dùng đến tua-bin loại Francis. Những công trình có thác nướctừ vài chục mét trở xuống gọi là công trình có thác thấp. Những công trìnhnày thường dùng đến tua-bin loại Kaplan.Chúng ta cũng có thể phân biệt một dự án thủy lực theo công suất của nhàmáy điện. Ở trên thế giới có chừng hai trăm nhà máy công suất hơn 1.000MW (một triệu kilô watt) gọi là thủy điện rất lớn nhưng cũng có cả nghìncông trình lớn nhỏ từ vài trăm nghìn kilô watt đến vài trăm kilô watt (gọi làthủy điện nhỏ) và vô số công trình có công suất nhỏ hơn (gọi là thủy điệncực nhỏ).Công nghệ của những tua-bin tùy ở công suất chứ không tùy ở loại tua-bin.Những công trình thủy điện nhỏ hay cực nhỏ cần đến công nghệ xoongchảo tương đối đơn sơ. Những công trình vừa cần đến các công nghệxoong chảo, luyện kim và thủy động học tinh luyện hơn giống như côngnghệ đóng tầu trọng tải vài trăm tấn trở lên. Còn những công trình lớn hơnthì cần đến công nghệ đặc biệt của ngành thủy điện lực. Ngoài ra việc xâyđập thì cần đến những kỹ thuật xây dựng. Thường thì một xí nghiệp có hợpđồng thực hiện một dự án thủy điện chỉ quản lý và kiểm tra việc xây dựngchứ còn thực hiện thì giao công cho những xí nghiệp hay dân địa phương.Khả năng áp dụng ở Việt namTiềm năng thủy điện ở nước ta rất là phong phú. Điều đó rất là dễ hiểu.Nước ta mưa nhiều và có núi cao hiểm trở. Nước mưa rơi trên đỉnh núichảy xuống biển qua những thung lũng hẹp. Chúng ta chỉ cần xây một đậptương đối nhỏ là đủ có một trạm phát điện. Hiện nay hơn một nửa điện tiêuthụ ở Viêt nam là thủy điện.Ở những miền thượng du Tây bắc đồng bào thiểu số dùng những tua-binloại Kaplan chế tạo trong nước gắn vào một ổ phát điện vài kilô watt để cóđiện dùng trong sản xuất và sinh hoạt trong gia đình. Để dân chủ động chếtạo như vậy là một điều phung phí sức lao động và tiền của.Đáng lý ra thì chúng ta phải bắt đầu khai triển những nhà máy thủy điệnnhỏ và trung bình. Vấn đề xây đập và kênh dẫn nước hay ống dẫn nướckhông cần phải đặt ra vì kỹ sư Việt nam rất thông thạo những việc này.Khâu cần phải khai triển là bộ tua bin, phát điện và điều hành. Như nói ởtrên, công nghệ cần thiết để khai triển điện lực nhỏ và cực nhỏ thì từ đơnsơ đến đơn giản. Để tiết kiệm công thiết kế, để giảm giá thành cũng như giatăng độ tin cậy của máy, chúng ta có thể thiết kế và sản xuất những bộ cócông suất đã được tiêu chuẩn hóa từng bậc 1 kW, 5 kW, 10 kW,… cho tới10.000 kW. Chúng ta có ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
năng lượng năng lượng mặt trời cách tạo năng lương mặt trời các nguồn năng lượng năng lượng hoàn nguyên năng lượng tái tạoTài liệu có liên quan:
-
99 trang 290 0 0
-
Nghiên cứu đánh giá hiện trạng công nghệ điện mặt trời ở Việt Nam
4 trang 269 0 0 -
Hướng dẫn thiết kế lắp đặt hệ thống điện mặt trời - Sổ tay điện mặt trời: Phần 1
71 trang 169 1 0 -
51 trang 164 0 0
-
7 trang 162 0 0
-
9 trang 159 0 0
-
Mô hình điện mặt trời cho Việt Nam
3 trang 158 0 0 -
HƯỚNG DẪN XÂY DỰNG KHẨU PHẦN ĂN
12 trang 157 1 0 -
Mô hình giám sát và điều khiển hệ thống pin mặt trời
6 trang 152 0 0 -
Đồ án Điện tử công suất: Thiết kế cung cấp điện và năng lượng mặt trời
45 trang 137 0 0