![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://thuvienso.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
NEPAL VÀ TÂY TẠNG
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 175.89 KB
Lượt xem: 20
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Sự gìn giữ xã hội truyền thống và những hình thức sau này của đạo Phật là nhiệm vụ của những người trị vì xứ Nepal và Tây Tạng, ở những rặng núi phía nam Hy Mã Lạp Sơn là có thể thuận tiện du nhập vào từ vùng Bắc ấn, và phong cách Gupta trọn vẹn thuộc thế kỷ VI tìm thấy được những người hành nghề đầy lòng nhiệt tình và khéo tay ở đây. Loại đá màu xám - lục mịn hạt của vùng thung lũng Kathmandu thích hợp tốt cho những loại tượng trang nhã hấp...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NEPAL VÀ TÂY TẠNG NEPAL VÀ TÂY TẠNG Sự gìn giữ xã hội truyền thống và những hình thức sau này của đạo Phật là nhiệm vụ của những người trị vì xứ Nepal và Tây Tạng, ở những rặng núi phía nam Hy Mã Lạp Sơn là có thể thuận tiện du nhập vào từ vùng Bắc ấn, và phong cách Gupta trọn vẹn thuộc thế kỷ VI tìm thấy được những người hành nghề đầy lòng nhiệt tình và khéo tay ở đây. Loại đá màu xám - lục mịn hạt của vùng thung lũng Kathmandu thích hợp tốt cho những loại tượng trang nhã hấp dẫn của ấn giáo lẫn Phật Bồ tát Padmapain. giáo. Nhờ phẩm chất ưu tú của nghệ thuật khắc Đồng.h: 61,9cm chạm và sự thông hiểu các tiêu chuẩn mô tả, các TK XII (Nepal) họa sĩ người Nepal không thể bị chê trách. Đôi Bảo tàng Mỹ thuật khi, đặc biệt do ảnh hưởng của những tượng kim Cleve land loại nhỏ đến từ Bengal thuộc thời kỳ Pala, các tác phẩm điêu khắc có khuynh hướng trang nhã và uốn khúc quá mức. Nhưng sự xử lý về y phục và sự thêm vào những loại đá quí vừa ở vòng đeo cổ, băng cánh tay, khăn trùm đầu tô điểm cho dáng vẻ từ bi và mềm mại. Trong tất cả những tác phẩm điêu khắc trên đá của người Nepal còn tồn tại, thì tác phẩm quan trọng nhất là Jalashayana Narayana ở làng Budhanilkantha gần Kathmandu. Tiếng Sanskrit gọi là Vishnu Anantashayin, tượng này là một biểu tượng thần Vishnu (Narayana) được chống đỡ bởi rắn thần Ananta, người ta cho là nổi trên Đại Dương Vũ Trụ trong nhiều niên kỷ giữa thời kỳ hủy hoại và sáng tạo. Một khái niệm cơ bản của người Hindu, hình tượng này vẫn được người Phật giáo và ấn giáo tiếp tục thờ cúng giống nhau. Một hình tượng đạt được một ý niệm nào đó về sức mạnh của đức tin tôn giáo với quyền lực hoàng gia ở thế kỷ thứ bảy là một bức tượng cao 6,4m được chạm trổ từ tảng đá duy nhất được mang về từ vùng đồi núi đến thung lũng Kathmandu khi tác phẩm điêu khắc được vua Vishnugupta đặt làm khoảng năm 641. Phật giáo Nepal hoàn toàn thuộc tông phái Đại Thừa (Mahayana) và sau đó là Mật tông (Tantric). Hệ thống này nhấn mạnh sự chuẩn bị phức tạp cho lễ qui y hay nhập môn, những phương pháp tu tập Yoga với những kỷ luật nghiêm khắc của vị đạo sư (gu ru), và sự quan trọng ngang bằng của nguyên lý nữ tính như là “shakti” hay là năng lượng của nam thần. Những hình tượng có nhiều tay và đầu là điều quen thuộc. ở những hình thức này, vật đúc tinh xảo, duyên dáng và kỹ thuật mạ vàng hoàn mỹ đã nâng cao giá trị món đồ vật có kích cỡ nhỏ bé và chi tiết quá mức tinh xảo. Ví dụ như khi người ta nghĩ đến những hình dáng có hệ thống dưới đây về những nhà điêu khắc hiện đại chẳng hạn như Jacques Lipchitz hoặc Theodore Roszak và sau đó quan sát những tượng và tranh ảnh của người Nepal, với vẻ duyên dáng linh hoạt và sự mở rộng mang đặc tính cứng rắn vào không gian bằng những phương tiện của những sự lồi ra và những chỗ lõm vào hay các lỗ hổng, người ta cảm thấy một thành quả thẩm mỹ đích thực. Những mối liên hệ chính thức giữa Trung Quốc và Nepal cùng với Tây Tạng khởi đầu vào triều vua Kubilai Khan (k.1280 - 1295), tạo nên những ảnh hưởng mạnh mẽ tác động lẫn nhau ở những kỹ thuật đúc kim loại và trên những phong cách hội họa. Phong cách mỹ thuật sau này thường mang tính cách điên cuồng ghê sợ có chủ ý của Tây Tạng tương tự với nền mỹ thuật Phật giáo Mật Tông của Nhật Bản ở nhiều khía cạnh. Nền mỹ thuật Tây Tạng đã thu hút thêm sự chú ý qua sự di dân đến ấn Độ và phương Tây của giới tăng lữ lẫn những tác phẩm điêu khắc và những món đồ vật nghi lễ sau sự sáp nhập Tây Tạng vào Trung Quốc năm 1951. Không còn những bức họa có qui mô lớn thuộc triều Pa la hay Sena tồn tại. Nhưng những hình ảnh tô màu rực rỡ bằng tay của khu vực Đông ấn vẫn còn giữ một cái gì đó của phong cách Gupta và phong cách đầu thời kỳ Trung cổ của vùng Ajanta ở nghệ thuật hội họa. Những bản viết tay được họa trên những nẹp lá cọ dài, thông thường với những đoạn kinh cùng một ít phần minh họa, và là những phương tiện mang phong cách Gupta, với những khái niệm của nó về nhân vật và sự trình bày về không gian, được truyền sang Nepal và Tây Tạng. Một chi tiết của một bản viết tay từ Đông ấn cho thấy gờ nổi nào đó quanh những đường nét của cơ thể, việc bố trí phong cảnh, và một sự biểu thị đơn giản về không gian và bằng cách đặt một đối tượng ở trên nó để hàm ý rằng nó ở phía sau. ở một chi tiết khác từ bản viết tay này là những hình dáng các tảng đá mang tính hình học lạ thường mà chúng ta trông thấy ở Ajanta. Một hệ thống màu đặc trưng sống động khác với màu sắc khá mềm mại và nhẹ nhàng của vùng Ajanta. Một bản viết tay có nguồn gốc từ Nepal, dựa trên phong cách của các bản viết tay thuộc khu vực Đông ấn được xuất khẩu sang Nepal, có niên đại đến năm 1111, khoảng 50 đến 100 năm sau đối với bản thứ nhất. Nó cho thấy sự tinh xảo tuyệt vời hơn, đặc biệt ở sự xử lý đường kẻ. Đường gờ, ở màu hoặc sắc màu, hầu như đồng màu. Những biểu thị của đường viền hoặc của sự chuyển động được tạo nên bởi những đường kẻ bên ngoài. Trong bản viết tay này, chúng ta có những hình thức mô tả duy nhất về các vị thần, hiện hữu trong kiểu bố trí bất biến ở những vầng hào quang của họ. Không có những quang cảnh trình bày về những phong cảnh, những nội thất, hoặc bất cứ sự bố trí nào ở khoảng không. Nó là một hình thức mỹ thuật mang tính qui ước thuộc giới tăng lữ, nổi trội bởi sự mô tả bằng tranh tượng của Phật giáo Đại thừa, nhưng, giống như đồ đồng, đầy vẻ duyên dáng cùng với đường nét uyển chuyển ở các nhân vật. Mặc dù những bức họa đầu tiên có qui mô lớn từ đông bắc ấn thông thường là vô danh, có một số tác phẩm có tầm cỡ và gây ấn tượng từ Nepal và Tây Tạng. Số nhiều trong những tác phẩm này là những “thangka”, những bức tượng ở khổ tranh cuộn treo tường, trình bày cùng phong cách được nhận ra ở các bức tranh vẽ dưới hình thức làm to ra. Một bức tượng lộng lẫ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NEPAL VÀ TÂY TẠNG NEPAL VÀ TÂY TẠNG Sự gìn giữ xã hội truyền thống và những hình thức sau này của đạo Phật là nhiệm vụ của những người trị vì xứ Nepal và Tây Tạng, ở những rặng núi phía nam Hy Mã Lạp Sơn là có thể thuận tiện du nhập vào từ vùng Bắc ấn, và phong cách Gupta trọn vẹn thuộc thế kỷ VI tìm thấy được những người hành nghề đầy lòng nhiệt tình và khéo tay ở đây. Loại đá màu xám - lục mịn hạt của vùng thung lũng Kathmandu thích hợp tốt cho những loại tượng trang nhã hấp dẫn của ấn giáo lẫn Phật Bồ tát Padmapain. giáo. Nhờ phẩm chất ưu tú của nghệ thuật khắc Đồng.h: 61,9cm chạm và sự thông hiểu các tiêu chuẩn mô tả, các TK XII (Nepal) họa sĩ người Nepal không thể bị chê trách. Đôi Bảo tàng Mỹ thuật khi, đặc biệt do ảnh hưởng của những tượng kim Cleve land loại nhỏ đến từ Bengal thuộc thời kỳ Pala, các tác phẩm điêu khắc có khuynh hướng trang nhã và uốn khúc quá mức. Nhưng sự xử lý về y phục và sự thêm vào những loại đá quí vừa ở vòng đeo cổ, băng cánh tay, khăn trùm đầu tô điểm cho dáng vẻ từ bi và mềm mại. Trong tất cả những tác phẩm điêu khắc trên đá của người Nepal còn tồn tại, thì tác phẩm quan trọng nhất là Jalashayana Narayana ở làng Budhanilkantha gần Kathmandu. Tiếng Sanskrit gọi là Vishnu Anantashayin, tượng này là một biểu tượng thần Vishnu (Narayana) được chống đỡ bởi rắn thần Ananta, người ta cho là nổi trên Đại Dương Vũ Trụ trong nhiều niên kỷ giữa thời kỳ hủy hoại và sáng tạo. Một khái niệm cơ bản của người Hindu, hình tượng này vẫn được người Phật giáo và ấn giáo tiếp tục thờ cúng giống nhau. Một hình tượng đạt được một ý niệm nào đó về sức mạnh của đức tin tôn giáo với quyền lực hoàng gia ở thế kỷ thứ bảy là một bức tượng cao 6,4m được chạm trổ từ tảng đá duy nhất được mang về từ vùng đồi núi đến thung lũng Kathmandu khi tác phẩm điêu khắc được vua Vishnugupta đặt làm khoảng năm 641. Phật giáo Nepal hoàn toàn thuộc tông phái Đại Thừa (Mahayana) và sau đó là Mật tông (Tantric). Hệ thống này nhấn mạnh sự chuẩn bị phức tạp cho lễ qui y hay nhập môn, những phương pháp tu tập Yoga với những kỷ luật nghiêm khắc của vị đạo sư (gu ru), và sự quan trọng ngang bằng của nguyên lý nữ tính như là “shakti” hay là năng lượng của nam thần. Những hình tượng có nhiều tay và đầu là điều quen thuộc. ở những hình thức này, vật đúc tinh xảo, duyên dáng và kỹ thuật mạ vàng hoàn mỹ đã nâng cao giá trị món đồ vật có kích cỡ nhỏ bé và chi tiết quá mức tinh xảo. Ví dụ như khi người ta nghĩ đến những hình dáng có hệ thống dưới đây về những nhà điêu khắc hiện đại chẳng hạn như Jacques Lipchitz hoặc Theodore Roszak và sau đó quan sát những tượng và tranh ảnh của người Nepal, với vẻ duyên dáng linh hoạt và sự mở rộng mang đặc tính cứng rắn vào không gian bằng những phương tiện của những sự lồi ra và những chỗ lõm vào hay các lỗ hổng, người ta cảm thấy một thành quả thẩm mỹ đích thực. Những mối liên hệ chính thức giữa Trung Quốc và Nepal cùng với Tây Tạng khởi đầu vào triều vua Kubilai Khan (k.1280 - 1295), tạo nên những ảnh hưởng mạnh mẽ tác động lẫn nhau ở những kỹ thuật đúc kim loại và trên những phong cách hội họa. Phong cách mỹ thuật sau này thường mang tính cách điên cuồng ghê sợ có chủ ý của Tây Tạng tương tự với nền mỹ thuật Phật giáo Mật Tông của Nhật Bản ở nhiều khía cạnh. Nền mỹ thuật Tây Tạng đã thu hút thêm sự chú ý qua sự di dân đến ấn Độ và phương Tây của giới tăng lữ lẫn những tác phẩm điêu khắc và những món đồ vật nghi lễ sau sự sáp nhập Tây Tạng vào Trung Quốc năm 1951. Không còn những bức họa có qui mô lớn thuộc triều Pa la hay Sena tồn tại. Nhưng những hình ảnh tô màu rực rỡ bằng tay của khu vực Đông ấn vẫn còn giữ một cái gì đó của phong cách Gupta và phong cách đầu thời kỳ Trung cổ của vùng Ajanta ở nghệ thuật hội họa. Những bản viết tay được họa trên những nẹp lá cọ dài, thông thường với những đoạn kinh cùng một ít phần minh họa, và là những phương tiện mang phong cách Gupta, với những khái niệm của nó về nhân vật và sự trình bày về không gian, được truyền sang Nepal và Tây Tạng. Một chi tiết của một bản viết tay từ Đông ấn cho thấy gờ nổi nào đó quanh những đường nét của cơ thể, việc bố trí phong cảnh, và một sự biểu thị đơn giản về không gian và bằng cách đặt một đối tượng ở trên nó để hàm ý rằng nó ở phía sau. ở một chi tiết khác từ bản viết tay này là những hình dáng các tảng đá mang tính hình học lạ thường mà chúng ta trông thấy ở Ajanta. Một hệ thống màu đặc trưng sống động khác với màu sắc khá mềm mại và nhẹ nhàng của vùng Ajanta. Một bản viết tay có nguồn gốc từ Nepal, dựa trên phong cách của các bản viết tay thuộc khu vực Đông ấn được xuất khẩu sang Nepal, có niên đại đến năm 1111, khoảng 50 đến 100 năm sau đối với bản thứ nhất. Nó cho thấy sự tinh xảo tuyệt vời hơn, đặc biệt ở sự xử lý đường kẻ. Đường gờ, ở màu hoặc sắc màu, hầu như đồng màu. Những biểu thị của đường viền hoặc của sự chuyển động được tạo nên bởi những đường kẻ bên ngoài. Trong bản viết tay này, chúng ta có những hình thức mô tả duy nhất về các vị thần, hiện hữu trong kiểu bố trí bất biến ở những vầng hào quang của họ. Không có những quang cảnh trình bày về những phong cảnh, những nội thất, hoặc bất cứ sự bố trí nào ở khoảng không. Nó là một hình thức mỹ thuật mang tính qui ước thuộc giới tăng lữ, nổi trội bởi sự mô tả bằng tranh tượng của Phật giáo Đại thừa, nhưng, giống như đồ đồng, đầy vẻ duyên dáng cùng với đường nét uyển chuyển ở các nhân vật. Mặc dù những bức họa đầu tiên có qui mô lớn từ đông bắc ấn thông thường là vô danh, có một số tác phẩm có tầm cỡ và gây ấn tượng từ Nepal và Tây Tạng. Số nhiều trong những tác phẩm này là những “thangka”, những bức tượng ở khổ tranh cuộn treo tường, trình bày cùng phong cách được nhận ra ở các bức tranh vẽ dưới hình thức làm to ra. Một bức tượng lộng lẫ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
nghệ thuật tạo hình nghệ sĩ điêu khắc tác phẩm điêu khắc điêu khắc gia trường phái nghệ thuật tượng nghệ thuậtTài liệu có liên quan:
-
Tranh biếm họa trào phúng của họa sỹ Pawel Kuczynski
10 trang 348 0 0 -
6 trang 262 0 0
-
Khám phá những pho tượng độc, dị nhất Việt Nam
17 trang 204 1 0 -
Hành trình của thần linh và thân phận - Văn hóa Lên đồng: Phần 2
188 trang 188 3 0 -
Tài liệu Lịch sử mỹ thuật Việt Nam
20 trang 171 4 0 -
Giáo trình Nghệ thuật tạo hình: Phần 1
81 trang 106 0 0 -
7 trang 88 0 0
-
Điêu khắc thời Trần (1225 – 1400)
17 trang 86 0 0 -
7 trang 62 1 0
-
4 trang 61 0 0
-
Giáo trình Nghệ thuật tạo hình: Phần 2
33 trang 60 0 0 -
Cách biểu đạt ước vọng của người Việt trong tranh dân gian
7 trang 59 0 0 -
9 trang 58 0 0
-
Điêu khắc Việt Nam: Vật vã tìm chỗ đứng
8 trang 58 0 0 -
Điêu khắc Việt Nam qua các thời kỳ phong kiến
3 trang 56 0 0 -
Dương Phú Hiến và những pho tượng Phật cổ
15 trang 56 0 0 -
Độc đáo bộ tượng Thập Bát La Hán bằng gỗ 100 năm tuổi
23 trang 54 0 0 -
CHÂN DUNG HỌA SỸ NGUYỄN GIA TRÍ
3 trang 53 1 0 -
11 trang 53 0 0
-
34 trang 53 0 0