Danh mục tài liệu

Nghệ thuật đương đại sống với cộng đồng

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 185.13 KB      Lượt xem: 25      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Chợ phiên – một sắp đặt bằng gỗ của Nguyễn Bảo Toàn tại triển lãm cá nhân “Mạn ngược” hồi đầu tháng 6/2011 tại Hà Nội. Nếu có một bộ phận văn hóa nghệ thuật nào phát triển lạ lùng, nhanh mạnh gây ảnh hưởng nhất ở ta hai thập kỷ qua thì đó chính là nghệ thuật đương đại chứ không phải âm nhạc, điện ảnh, sân khấu hay thơ văn…! Trong đời sống nghệ thuật đương đại cũng năng động, gây nhiều ồn ào, tranh cãi và phiền hà nhất; đồng thời tác động trực tiếp, hướng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghệ thuật đương đại sống với cộng đồng Nghệ thuật đương đại sống với cộng đồng Chợ phiên – một sắp đặt bằng gỗ của Nguyễn Bảo Toàn tại triển lãm cá nhân “Mạn ngược” hồi đầu tháng 6/2011 tại Hà Nội. Nếu có một bộ phận văn hóa nghệ thuật nào phát triển lạ lùng, nhanh mạnh gây ảnh hưởng nhất ở ta hai thập kỷ qua thì đó chính là nghệ thuật đương đại chứ không phải âm nhạc, điện ảnh, sân khấu hay thơ văn…! Trong đời sống nghệ thuật đương đại cũng năng động, gây nhiều ồn ào, tranh cãi và phiền hà nhất; đồng thời tác động trực tiếp, hướng về cộng đồng nhất. 1. Nghệ thuật đương đại Contemporary Art (CA) thay đ ổi quan niệm, ngôn ngữ và cách hoạt động nghệ thuật. Nó mở rộng biên giới của m ỹ thuật truyền thống tới mức người ta dùng thuật ngữ Nghệ thuật Thị giác (NTTG) để thay thế. Do đó cơ cấu hạ tầng, tức những thứ cần cho nó sống, phải khác từ sáng tác đến tiếp nhận -tương tác. Phần mềm của hạ tầng này là nhận thức quan niệm, triết lý và m ỹ học của nghệ thuật nơi người sáng tạo và nơi công chúng. Phần cứng của hạ tầng là các không gian công cộng, tư nhân, cá nhân cho sáng tạo và tương tác, các qu ỹ tài trợ nghệ thuật, các thiết chế văn hóa nghệ thuật chính phủ, phi chính phủ và tư nhân, các công nghệ nghe nhìn, kỹ thuật mới mà nghệ sĩ phải nắm được và các bên tài trợ tổ chức phải cung cấp được. Các luật lệ, hành lang pháp lý cho nó hoạt động - vì nó cần tiền, không gian và giấy phép trước khi hình thành tác phẩm. Nó tác động vào cộng đồng theo cách khác trước. Công chúng cần tương tác, chủ động từ ý niệm đến tham dự từ bên trong tác phẩm, đồng sáng tạo, không tiếp nhận thụ động, đứng ngoài tác phẩm nữa. Có thể coi nghệ thuật truyền thống là nghệ thuật tiếp nhận (Receptive); trong khi CA là ngh ệ thuật tham dự- ý niệm (Conceptive – Conceptual). CA phủ nhận tác phẩm, tác giả và công chúng dưới các dạng cũ và có thể mang tính nghe nhìn liên ngành phụ thuộc vào các dạng thức mới của computer-media- internet. Triết lý, câu chuyện và vận hành của CA đụng chạm, làm đảo lộn hầu như tất cả các vấn đề m ỹ học (không gian hậu hiện đại với sự cô đơn và đòi hỏi khác biệt…), nghệ thuật học (ngôn ngữ tạo hình, vật có sẵn, vật dụng thông thường, rác thải, địa hình, cơ thể và các tác động, quy trình sinh học, sinh lý…), xã hội học (tác phẩm là một sự kiện, gắn chặt với văn hóa đại chúng, nổi loạn, phản biện, gây sự nơi công cộng, các người tình nguyện và các curators, các thiết chế mới cho NTTG, đối đầu và tư thông giữa bảo tàng, gallery và đường phố!…), luân lý học (cực đoan hóa, công cộng hóa các vấn đề riêng tư, sex, đồng tính, nhân quyền, nữ quyền…), chính trị học (gắn với tuyên truyền, vận động phản biện mọi quyết sách chính trị, trở thành tiếng nói của cộng đồng trong không gian thực và không gian ảo - blog, mạng xã hội, diễn đàn… và vì thế đụng độ với công án, tòa án không ít!...) kinh tế học (nó có thể là phi lợi nhuận nhưng nghệ sĩ, curators vẫn kiếm được tiền, phi chính phủ nhưng rất chính trị, kinh tế nên được tài trợ hào phóng, gắn với quảng cáo, ngôn ngữ quảng cáo, với thị trường cùng sự khuynh đảo, lèo lái của các galleries và các curators…). Và nó trở thành một hiện tượng toàn cầu, một thực trạng không biên giới, một bộ phận sôi động rộng rãi nhất của nghệ thuật, hoạt động như một network. Một màn trình diễn trong “Đáo Xuân 6” của Đào Anh Khánh, tối 24/2/2010 tại Hà N ội 2. Ở phương Tây CA xuất hiện vào những năm 1950-1960 (dù có các cụ tổ ngay trong dòng modernism đầu TK20) sau Thế chiến II ở Bắc Mỹ và châu Âu và đã có lịch sử, các bậc thầy của mình từ video art, installation, tới performance, multimedia, phim… CA từ ngoại biên đi vào trung tâm của m ỹ thuật, chiếm lĩnh các bienale, art fair, bảo tàng, galleries và trở thành các mặt hàng cực đắt giá hoặc cực đại chúng (vật phẩm làm hàng loạt, bán đại trà). Nó được hàn lâm hóa ở các đại học, art school, các khoa đào tạo từ cử nhân đến sau tiến sĩ. Nó có một đội ngũ nhà phê bình và curators hùng h ậu, khuynh đảo mọi hoạt động và thiết chế, có các collector và tài phiệt ‘chống lưng’ CA đến ASEAN khoảng 1970-1980 và vào Việt Nam những năm 1990. Đầu năm 1990 khi dịch chữ installation thành sắp đặt và perfomance thành trình diễn tôi tự hỏi bao giờ những thứ này mới tới Việt Nam. Gần như ngay lập tức có trình diễn của Trương Tân trong lớp học ở ĐH Mỹ thuật Việt Nam cùng các tranh chủ đề đồng tính, có các con búp bê-chất độc da cam ngồi trên hoa sen của Đinh Q. Lê bày ở chợ Bến Thành, các hoạt động của Trần Lương ở Nhà sàn Đức, Viện Goethe, mỏ than Mạo Khê, các trình diễn giàu tính sân khấu đông đúc của Đào Anh Khánh, các sắp đặt đầy tính dân gian của Bảo Toàn, Đặng Thị Khuê… và sau đó là trình diễn, sắp đặt, video art… của hàng loạt nghệ sĩ trẻ hơn từ Nguyễn Minh Thành tới Ly Hoàng Ly, Minh Phương, Bùi Công Khánh, Đinh Công Đạt và anh em Thanh- Hải (Huế), Minh Phước, Văn Thạo tới Huy An, Nguyễn Văn Hè…v.v Năm 2011 có các sự kiện ‘nhìn lại’ CA châu Á và ASEAN tại Singapore và Hàn Quốc với sự hiện diện ấn tượng của các nghệ sĩ thị giác nước ta, Người cơm của Trần Lương được dùng làm poster và in bìa, như là biểu tượng của 20 năm phát triển CA của khu vực. Tác phẩm của Lê Quang Định được bảo tàng MOMA danh tiếng mua và anh nhận một giải thưởng của Hà Lan cho đóng góp nghệ thuật cộng đồng. Chỉ 20 năm tôi đã có thể đưa ra gợi ý các nhà phê bình nghiên cứu viết một cuốn lịch sử 20 năm CA Việt Nam. Nếu có một bộ phận văn hóa nghệ thuật nào phát triển lạ lùng, nhanh mạnh gây ảnh hưởng nhất ở ta hai thập kỷ qua thì đó chính là CA chứ không phải âm nhạc, điện ảnh, sân khấu hay thơ văn…! Trong đời sống CA cũng năng động, gây nhiều ồn ào, tranh cãi và phiền hà nhất; đồng thời tác động trực tiếp, hướng về cộng đồng nhất. 3. Hiện trạng CA Việt Nam: Tôi ước tính số nghệ sĩ thực hành CA khoảng 150 người trẻ sinh sau 1970 và bắt đầu sáng tạo CA cuối những năm 1990 khi Doimoi Art đã “tự kết thúc”. Các nghệ sĩ 6X tiên phong đã trở thành “lão làng”, những người mở đường cho CA Việt Nam. Các nghệ sĩ và hoạt độn ...