Nguyễn phúc thuần ( 1765 – 1777)
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 189.11 KB
Lượt xem: 19
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nguyễn Phúc Thuần còn có tên húy là Hân, sinh năm Giáp Tuất ( 1751), con thứ 16 của Phúc Khoát. Mẹ Phúc Thuần, người họ Nguyễn, sinh được hai trai, Phúc Thuần là thứ hai. Năm Giáp Ngọ ( 1774) bà đi tu ở chùa Phúc thành, sau đó mất ( 1804) được truy tôn là Tuệ Tĩnh thánh mẫu Nguyên sư, hiệu là thiệu Long giáo chủ.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nguyễn phúc thuần ( 1765 – 1777) Nguyễn phúc thuần ( 1765 – 1777) Nguyễn Phúc Thuần còn có tên húy là Hân, sinh năm Giáp Tuất (1751), con thứ 16 của Phúc Khoát. Mẹ Phúc Thuần, người họ Nguyễn,sinh được hai trai, Phúc Thuần là thứ hai. Năm Giáp Ngọ ( 1774) bà đitu ở chùa Phúc thành, sau đó mất ( 1804) được truy tôn là Tuệ Tĩnhthánh mẫu Nguyên sư, hiệu là thiệu Long giáo chủ.Chúa Phúc Khoát lúc đầu lập Hoàng tử thứ 9 tên là Hiệu làm Tháihoàng tử, Hiệu mất sớm, con trai của Hiệu là Hoàng Tôn Dương cònthơ ấu mà Hoàng tử cả là Chương cũng đã mất, Hoàng tử thứ hai làNguyễn Phúc Luân cũng rất khôi ngô, theo thứ tự sẽ phải lập HoàngTôn Dương hoặc Nguyễn Phúc Luân lên ngôi, Phúc Khoát có ý lậpPhúc Luân, nên đã trao Luân cho một thầy học nổi tiếng là TrươngVạn Hạnh dạy bảo những điều cần thiết cho một người gánh vác ngôivua. Phúc Khoát mất, tình hình lại thay đổi. Quyền thần Trương PhúcLoan không muốn lập Nguyễn Phúc Luân vì Luân đã lớn tuổi, khó bềlộng hành. Thế là Phúc Loan chọn lập Phúc Thuần con thứ 16 củaPhúc Khoát, mới 12 tuổi lên ngôi.Phúc Luân không được lập mà còn bị bắt giam. Nội hữu Trương VănHạnh – thầy dạy Phúc Luân cũng bị bắt giế. Phúc Luân không đượcnối ngôi trời, lo buồn cho tính mạng mà chết khi mới ở tuổi 33. Đếnnăm Minh mệnh thứ 2 ( 1821) Luân được truy tôn hiệu là Hưng tổ.Trải 9 đời chúa, đến đây nhà Nguyễn lại bị nạn quyền thần lấn lướt,Phúc Thuần nhỏ tuổi, lại là người không phải sắp sẵn để lên ngôi, naythật bỡ ngỡ trên ngai vàng. Mọi quyền hành đều do Trương Phúc Loansắp đặt, Loan tự nhận là Quốc phó, giữ bộ hộ quản cơ Trung tượngkiêm Tầu vụ. Thực tế Trương Phúc Loan thâu tóm vào tay từ chính sựđến kinh tế. Các nguồn lợi chủ yếu của vương quốc Đàng Trong đềurơi vào tay Loan. Thuế sản vật các mỏ vàng thu Bồn, Đồng Hương,Trà Sơn, Trà Vân…Hàng năm Trương ch ỉ vào nộp ngân khố 1 – 2 phần10 số thu được. Các thứ lâm thủy sản đều chảy vào nhà Trương, ngàynắng Loan cho đem phơi của cải quý báu làm sáng rực cả một góctrời. Cả nhà họ Trương chia nhau nắm hết mọi chức vụ chủ chốt.Quyền và tiền họ Trương lấn át hết cả trong triều ngoài trấn. Có tiền,có quyền, Loan mặc sức hoành hành ngang ngược – người bấy giờ gọilà Trương Tần Cối.Giữa lúc đó, lại bộ thượng thư Nguyễn Cư Trinh, người có uy tín tàinăng, trị cột của Nguyễn triều qua đời ( Tháng 5 năm Đinh Hợi 1767).Thế là họ Trương không còn ai ngăn cản nữa, càng ra sức làm nhiềuviệc càn rỡ, chẳng còn kiêng nể gì, bán quan buôn tước, ăn tiền thatội, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, thần dân cực khổ vàcăm giận. Những người có tâm huyết và tài năng như Tôn Thất Dục,tinh thông kinh sử, thuật số, âm nhạc, bị Loan tìm cách hãm hại. Tàichính kiệt quệ đến nỗi dật sĩ thuận Hóa là Ngô Thế Lân phải kêu lêntriều đình. Nhưng mọi cố gắng của họ Ngô không được hồi âm.Giữa lúc đó, anh em Tây Sơn do Nguyễn Nhạc cầm đầu dấy nghĩa ởQuy Nhơn, thanh thế ngày càng lừng lẫy vì được dân chúng đồng tìnhủng hộ. Thêm vào đó, tháng 5 năm Giáp Ngọ ( 1774) Trịnh lại đemđại quân vào đánh Nguyễn. Cả Tây Sơn lẫn Trịnh đều nêu khẩu hiệutrừ khử quyền thần Trương Phúc Loan và tôn phò Hoàng Tôn Dương.Chiến tranh loạn lạc lại nổ ra, đất Thuận Hóa trước trù phú là thế mànay trăm bề xơ xác la liệt, “ mỗi lẻ gạo trị giá một tiền, ngoài đườngxác đói, người nhà có khi ăn thịt nhau”.Trước tình cảnh đó, không còn cách nào khác, tôn thất nhà Nguyễncùng nhau hợp sức bắt trói Trương Phúc Loan nộp quân cho Trịnh.Tháng 12 năm 1774, Phúc Loan chiếm được Phú Xuân và đặt quan caitrị Thuận Hóa. Trong số quan lại nhà Trịnh được cử vào Thuận Hóa cóLê Quý Đôn ( 1776).Sơn Tây tìm cách tạm hòa với Trịnh để để yên mặt Bắc và có điềukiện đánh Nguyễn ở phía Nam. Đại quân Tây Sơn cả thủy lẫn bộ đánhvào Sài Gòn. Chúa Nguyễn chạy về Định Tường rồi lại sang LongXuyên, tháng 9 năm Đinh Dậu ( 1777) quân Tây Sơn do Nguyễn Huệthống lĩnh đánh chiếm Long Xuyên, chúa Nguyễn bị chết trận. Nhưvậy Nguyễn Phúc Thuần ở ngôi chúa 12 năm, khi chết mới 24 tuổi,không có con nối. Thiệu trị hoàng đế ( 1841 – 1847) Niên hiệu : Thiệu TrịTrong số rất nhiều vợ của Minh Mệnh có bà vợ cả họ Hồ, con gái lớncủa công thần Hồ Văn Bôi, quê ở huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa, HồVăn Bôi đã có công theo giúp vua Gia Long từ buổi đầu, Gia Long vàbà Nhị phi đã chọn kỹ và cưới cô gái hô Hồ về làm vợ Hoàng tử Đởm.Là người trang kính, chín chắn. Thận trọng, hiền hòa, trinh nhất…đượcMinh Mệnh hết lòng kính yêu, phong là thuận đức thuần phi. Bà sinhHoàng thái tử Dong được 13 ngày thì mất. Hoàng tử Dong được cáccung nữ khác nuôi nấng. Năm Quý Mùi ( 1823), theo phép đặt tên củađế hệ. Hoàng tử Dong có tên mới là Miên Tông. Miên Tông là contrưởng trong số 78 hoàng tử của Minh Mệnh nên được nối ngôi. ThángGiêng năm Tân Sửu ( 1841) Miên Tông lên ngôi ở điện Thái Hòa, đặtniên hiệu là thiệu Trị, vvu7a2 đúng 34 tuổi.Thiệu Trị hiền hòa, không hay bày việc. Vả chăng, mọi quy chế đãđược sắp đặt khá quy củ từ thời Minh Mệnh, thiệu Trị giữ nếp cũ, chỉrăm rắp làm theo lời di huấn của cha thôi. Bầy tôi cũ từng giúp MinhMệnh nay vẫn là vây cánh, tay chân của thiệu Trị như Trương ĐăngQuế, Lê Văn Đức, Doãn Uẩn, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, LâmDuy Tiếp…Thời kỳ cầm quyền ngắn ngủi của thiệu Trị chỉ đủ để giảiquyết một số hậu quả để lại từ thời Minh Mệnh.Thứ nhất là khắc phục hậu quả của giải pháp bỏ đê ở Bắc Bộ. Vàonăm Quý Tị ( 1833), sau nhiều cố gắng củng cố và hoàn thiện hệthống đê điều ở Bắc Bộ mà vẫn lụt lội, Minh Mệnh mạnh dạn áp dụnggiải pháp “ đào sông thay đê”. Vua cho pháp bỏ đê điều vùng trũngphía nam Hà Nội, khơi đào sông thoát lũ ở Hải Dương, Hưng Yênnhưng vô hiệu. Theo ý nguyện của thần dân địa phương, thiệu Trị lạicho đắp đê, đập chắn ngang cửa sông Cửu An. Việc thứ hai là giảiquyết vấn đề Chân Lạp. Cuối đời Minh Mệnh, thành , Trấn Tây là mốilo cần giải quyết, Trương Minh Giảng, Nguyễn Tiến Lâm, Lê Văn Đức,Nguyễn Công Trứ…đem quân đánh dẹp mãi không yên. Vì thế n ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nguyễn phúc thuần ( 1765 – 1777) Nguyễn phúc thuần ( 1765 – 1777) Nguyễn Phúc Thuần còn có tên húy là Hân, sinh năm Giáp Tuất (1751), con thứ 16 của Phúc Khoát. Mẹ Phúc Thuần, người họ Nguyễn,sinh được hai trai, Phúc Thuần là thứ hai. Năm Giáp Ngọ ( 1774) bà đitu ở chùa Phúc thành, sau đó mất ( 1804) được truy tôn là Tuệ Tĩnhthánh mẫu Nguyên sư, hiệu là thiệu Long giáo chủ.Chúa Phúc Khoát lúc đầu lập Hoàng tử thứ 9 tên là Hiệu làm Tháihoàng tử, Hiệu mất sớm, con trai của Hiệu là Hoàng Tôn Dương cònthơ ấu mà Hoàng tử cả là Chương cũng đã mất, Hoàng tử thứ hai làNguyễn Phúc Luân cũng rất khôi ngô, theo thứ tự sẽ phải lập HoàngTôn Dương hoặc Nguyễn Phúc Luân lên ngôi, Phúc Khoát có ý lậpPhúc Luân, nên đã trao Luân cho một thầy học nổi tiếng là TrươngVạn Hạnh dạy bảo những điều cần thiết cho một người gánh vác ngôivua. Phúc Khoát mất, tình hình lại thay đổi. Quyền thần Trương PhúcLoan không muốn lập Nguyễn Phúc Luân vì Luân đã lớn tuổi, khó bềlộng hành. Thế là Phúc Loan chọn lập Phúc Thuần con thứ 16 củaPhúc Khoát, mới 12 tuổi lên ngôi.Phúc Luân không được lập mà còn bị bắt giam. Nội hữu Trương VănHạnh – thầy dạy Phúc Luân cũng bị bắt giế. Phúc Luân không đượcnối ngôi trời, lo buồn cho tính mạng mà chết khi mới ở tuổi 33. Đếnnăm Minh mệnh thứ 2 ( 1821) Luân được truy tôn hiệu là Hưng tổ.Trải 9 đời chúa, đến đây nhà Nguyễn lại bị nạn quyền thần lấn lướt,Phúc Thuần nhỏ tuổi, lại là người không phải sắp sẵn để lên ngôi, naythật bỡ ngỡ trên ngai vàng. Mọi quyền hành đều do Trương Phúc Loansắp đặt, Loan tự nhận là Quốc phó, giữ bộ hộ quản cơ Trung tượngkiêm Tầu vụ. Thực tế Trương Phúc Loan thâu tóm vào tay từ chính sựđến kinh tế. Các nguồn lợi chủ yếu của vương quốc Đàng Trong đềurơi vào tay Loan. Thuế sản vật các mỏ vàng thu Bồn, Đồng Hương,Trà Sơn, Trà Vân…Hàng năm Trương ch ỉ vào nộp ngân khố 1 – 2 phần10 số thu được. Các thứ lâm thủy sản đều chảy vào nhà Trương, ngàynắng Loan cho đem phơi của cải quý báu làm sáng rực cả một góctrời. Cả nhà họ Trương chia nhau nắm hết mọi chức vụ chủ chốt.Quyền và tiền họ Trương lấn át hết cả trong triều ngoài trấn. Có tiền,có quyền, Loan mặc sức hoành hành ngang ngược – người bấy giờ gọilà Trương Tần Cối.Giữa lúc đó, lại bộ thượng thư Nguyễn Cư Trinh, người có uy tín tàinăng, trị cột của Nguyễn triều qua đời ( Tháng 5 năm Đinh Hợi 1767).Thế là họ Trương không còn ai ngăn cản nữa, càng ra sức làm nhiềuviệc càn rỡ, chẳng còn kiêng nể gì, bán quan buôn tước, ăn tiền thatội, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, thần dân cực khổ vàcăm giận. Những người có tâm huyết và tài năng như Tôn Thất Dục,tinh thông kinh sử, thuật số, âm nhạc, bị Loan tìm cách hãm hại. Tàichính kiệt quệ đến nỗi dật sĩ thuận Hóa là Ngô Thế Lân phải kêu lêntriều đình. Nhưng mọi cố gắng của họ Ngô không được hồi âm.Giữa lúc đó, anh em Tây Sơn do Nguyễn Nhạc cầm đầu dấy nghĩa ởQuy Nhơn, thanh thế ngày càng lừng lẫy vì được dân chúng đồng tìnhủng hộ. Thêm vào đó, tháng 5 năm Giáp Ngọ ( 1774) Trịnh lại đemđại quân vào đánh Nguyễn. Cả Tây Sơn lẫn Trịnh đều nêu khẩu hiệutrừ khử quyền thần Trương Phúc Loan và tôn phò Hoàng Tôn Dương.Chiến tranh loạn lạc lại nổ ra, đất Thuận Hóa trước trù phú là thế mànay trăm bề xơ xác la liệt, “ mỗi lẻ gạo trị giá một tiền, ngoài đườngxác đói, người nhà có khi ăn thịt nhau”.Trước tình cảnh đó, không còn cách nào khác, tôn thất nhà Nguyễncùng nhau hợp sức bắt trói Trương Phúc Loan nộp quân cho Trịnh.Tháng 12 năm 1774, Phúc Loan chiếm được Phú Xuân và đặt quan caitrị Thuận Hóa. Trong số quan lại nhà Trịnh được cử vào Thuận Hóa cóLê Quý Đôn ( 1776).Sơn Tây tìm cách tạm hòa với Trịnh để để yên mặt Bắc và có điềukiện đánh Nguyễn ở phía Nam. Đại quân Tây Sơn cả thủy lẫn bộ đánhvào Sài Gòn. Chúa Nguyễn chạy về Định Tường rồi lại sang LongXuyên, tháng 9 năm Đinh Dậu ( 1777) quân Tây Sơn do Nguyễn Huệthống lĩnh đánh chiếm Long Xuyên, chúa Nguyễn bị chết trận. Nhưvậy Nguyễn Phúc Thuần ở ngôi chúa 12 năm, khi chết mới 24 tuổi,không có con nối. Thiệu trị hoàng đế ( 1841 – 1847) Niên hiệu : Thiệu TrịTrong số rất nhiều vợ của Minh Mệnh có bà vợ cả họ Hồ, con gái lớncủa công thần Hồ Văn Bôi, quê ở huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa, HồVăn Bôi đã có công theo giúp vua Gia Long từ buổi đầu, Gia Long vàbà Nhị phi đã chọn kỹ và cưới cô gái hô Hồ về làm vợ Hoàng tử Đởm.Là người trang kính, chín chắn. Thận trọng, hiền hòa, trinh nhất…đượcMinh Mệnh hết lòng kính yêu, phong là thuận đức thuần phi. Bà sinhHoàng thái tử Dong được 13 ngày thì mất. Hoàng tử Dong được cáccung nữ khác nuôi nấng. Năm Quý Mùi ( 1823), theo phép đặt tên củađế hệ. Hoàng tử Dong có tên mới là Miên Tông. Miên Tông là contrưởng trong số 78 hoàng tử của Minh Mệnh nên được nối ngôi. ThángGiêng năm Tân Sửu ( 1841) Miên Tông lên ngôi ở điện Thái Hòa, đặtniên hiệu là thiệu Trị, vvu7a2 đúng 34 tuổi.Thiệu Trị hiền hòa, không hay bày việc. Vả chăng, mọi quy chế đãđược sắp đặt khá quy củ từ thời Minh Mệnh, thiệu Trị giữ nếp cũ, chỉrăm rắp làm theo lời di huấn của cha thôi. Bầy tôi cũ từng giúp MinhMệnh nay vẫn là vây cánh, tay chân của thiệu Trị như Trương ĐăngQuế, Lê Văn Đức, Doãn Uẩn, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, LâmDuy Tiếp…Thời kỳ cầm quyền ngắn ngủi của thiệu Trị chỉ đủ để giảiquyết một số hậu quả để lại từ thời Minh Mệnh.Thứ nhất là khắc phục hậu quả của giải pháp bỏ đê ở Bắc Bộ. Vàonăm Quý Tị ( 1833), sau nhiều cố gắng củng cố và hoàn thiện hệthống đê điều ở Bắc Bộ mà vẫn lụt lội, Minh Mệnh mạnh dạn áp dụnggiải pháp “ đào sông thay đê”. Vua cho pháp bỏ đê điều vùng trũngphía nam Hà Nội, khơi đào sông thoát lũ ở Hải Dương, Hưng Yênnhưng vô hiệu. Theo ý nguyện của thần dân địa phương, thiệu Trị lạicho đắp đê, đập chắn ngang cửa sông Cửu An. Việc thứ hai là giảiquyết vấn đề Chân Lạp. Cuối đời Minh Mệnh, thành , Trấn Tây là mốilo cần giải quyết, Trương Minh Giảng, Nguyễn Tiến Lâm, Lê Văn Đức,Nguyễn Công Trứ…đem quân đánh dẹp mãi không yên. Vì thế n ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
giáo án lịch sử bài giảng lịch sử lịch sử THPT lịch sử Việt Nam tài liệu lịch sửTài liệu có liên quan:
-
Giáo án Lịch sử 8 (Trọn bộ cả năm)
272 trang 249 0 0 -
Giáo án Lịch sử 6 sách Chân trời sáng tạo (Trọn bộ cả năm)
173 trang 166 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 162 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 12: Lịch sử địa phương Quảng Nam
11 trang 112 0 0 -
Lịch sử văn minh thế giới: Thành tựu văn minh Ả Rập
27 trang 101 1 0 -
69 trang 95 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 66 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 10: Lịch sử địa phương Quảng Nam
10 trang 65 0 0 -
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 64 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 62 0 0