Nhà Tiền Lê (980 – 1009)
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 117.34 KB
Lượt xem: 19
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tham khảo tài liệu nhà tiền lê (980 – 1009), khoa học xã hội, lịch sử văn hoá phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nhà Tiền Lê (980 – 1009) Nhà Tiền Lê (980 – 1009) 1. Lê Đại Hành 2. Phá quân nhà Tống 3. Đánh Chiêm Thành 4. Việc đánh dẹp và sửa sang trong nước 5. Lê Trung Tông 6. Lê Long Đĩnh 1. LÊ ĐẠI HÀNH (980 – 1005). Lê Hoàn là người làng Bảo Thái, huyện ThanhLiêm, tỉnh Hà Nam bây giờ, làm quan Thập Đạo tướng quân nhà Đinh. Nhân khivua nhà Đinh còn trẻ tuổi, và lại có quân nhà Tống sang xâm lược, quân sĩ tôn LêHoàn lên làm vua, tức là Đại Hành Hoàng đế, niên hiệu là Thiên Phúc (980 – 988),Hưng Thống (989 – 993), và Ứng Thiên (994 – 1005). Vua Đại Hành lên làm vua rồi sai sứ đưa thư sang nhà Tống nói dối là thư củaĐinh Tuệ (Phế Đế) xin phong, có ý để nhà Tống hoãn bình lại. Nhưng vua nhàTống không nghe, sai sứ sang trách Đại Hành rằng sao được xưng đế, và lại nóirằng: “Nhà Đinh truyền tập đã ba đời rồi, vậy cho Đinh Tuệ làm Thống soái, LêHoàn làm phó. Nhược bằng Đinh Tuệ còn trẻ tuổi, không làm được, thì Lê Hoànphải bắt mẹ con Đinh Tuệ sang chầu Bắc triều, rồi sẽ phong quan t ước cho LêHoàn”. Vua Đại Hành biết mưu nhà Tống bèn không chịu và sửa sang phòng bị. 2. PHÁ QUÂN NHÀ TỐNG. Nhà Tống thấy vua Đại Hành không chịu nghelời, bèn sai tướng đem quân sang đánh. Tháng 3 năm Tân Tị (981) thì bọn HầuNhân Bảo và Tôn Toàn Hưng tiến quân sang mặt Lạng Sơn, bọn Lưu Trừng đemthủy quân sang mặt Bạch Đằng Giang. Vua Đại Hành đem binh thuyền ra chống giữ ở Bạch Đằng. Quân nhà Tống tiếnlên thế mạnh lắm, quan quân đánh không lại phải lùi. Bấy giờ lục quân của bọnHầu Nhân Bảo tiến sang đến Chi Lăng (thuộc Ôn Châu, Lạng Sơn), vua Đại Hànhsai người sang trá hàng để dụ Hầu Nhân Bảo đến chỗ hiểm bắt chém đi, rồi đuổiđánh quân nhà Tống chém giết được quá nửa, và bắt được hai người bộ tướng. Bọn Lưu Trừng thấy lục quân đã tan vỡ, vội vàng đem thủy quân rút về. Quân ta tuy thắng trận, nhưng vua Đại Hành sợ thế lực không chống với Tàuđược lâu, bèn sai sứ đem hai viên tướng bắt được sang trả nhà Tống và xin theo lệtriều cống. Lúc ấy ở phía Bắc nước Tàu có quân Khiết Đan (Hung Nô) đang đánhphá, cho nên vua nhà Tống cũng thuận, thôi việc chiến tranh với nước ta, và phongcho vua Đại Hành làm chức Tiết độ sứ. Năm Quý Tị (993) nhà Tống sách phong cho vua Đại Hành làm Giao Chỉ QuậnVương, rồi đến năm Đinh Dậu (997) lại gia phong là Nam Bình Vương. Bấy giờ sứ nhà Tống thường hay đi lại,có khi vua Đại Hành phụng chiếu màkhông lạy, nói dối rằng đi đánh giặc ngã ngựa đau chân. Nhà Tống biết là nói dối,nhưng đành làm ngơ đi. 3. ĐÁNH CHIÊM THÀNH. Vua Đại Hành phá được quân nhà Tống rồi, địnhsang đánh Chiêm Thành, vì lúc vua Đại Hành lên ngôi, có sai sứ sang ChiêmThành, bị vua nước ấy bắt giam sứ lại. Đến khi việc phía bắc đã yên, vua ĐạiHành đem binh sang báo thù. Quân vua Đại Hành sang chiếm giữ được kinh thànhnước Chiêm và bắt được người, lấy được của rất nhiều. Từ đấy nước Chiêm Thànhphải sang triều cống nước ta. 4. VIỆC ĐÁNH DẸP VÀ SỬA SANG TRONG NƯỚC. Việc trong nước thì cócác quan đại thần là bọn Từ Mục, Phạm Cự Lượng, Ngô Tử An giúp rập. Đặt luậtlệ, luyện quân lính và sửa sang mọi việc. Bấy giờ thường hay có các động Mường và những người các châu quận làmphản, vua Đại Hành phải thân chinh đi đánh dẹp, bình được 49 động Hà Man(thuộc huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa) và dẹp yên những người phản nghịchở các nơi. Bởi vậy thanh thế vua Đại Hành lúc bấy giờ rất là lừng lẫy. Năm Ất Tị (1005) là năm Ứng Thiên thứ 12, vua Đại Hành mất, thọ 65 tuổi,làm vua được 24 năm. 5.LÊ TRUNG TÔNG (1005). Vua Đại Hành đã định cho người con thứ ba làLong Việt làm thái tử, nhưng đến lúc vua Đại Hành mất, các hoàng tử tranh ngôiđánh nhau trong bảy tháng. Đến khi Long Việt vừa mới lên ngôi được 3 ngày thìbị em là Long Đĩnh sai người vào cung giết đi, thọ 23 tuổi. Sử gọi là Lê TrungTông. 6. LÊ LONG ĐĨNH (1005 – 1009). Long Đĩnh là người bạo ngược, tính haychém giết, ác bằng Kiệt, Trụ ngày xưa. Khi đã giết anh rồi, lên làm vua thường cứlấy sự giết người làm trò chơi: có khi những tù phạm phải hình, thì bắt lấy rơmtẩm dầu quấn vào người rồi đốt sống; có khi bắt tù trèo lên cây rồi ở dưới saingười chặt gốc cho cây đổ; có khi bỏ người vào sọt rồi đem thả xuống sông. Làmnhững điều ác như thế thì lấy làm thích chí. Một hôm lấy mía để lên đầu nhà sưmà róc vỏ, rồi thỉnh thoảng giả tảng nhỡ tay bổ dao vào đầu sư chảy máu ra, trôngthấy thế lấy làm vui cười. Còn khi ra buổi chầu, có ai tấu sớ điều gì thì cho nhữngthằng hề nói khôi hài hay là nhại tiếng làm trò. Long Đĩnh làm vua được 2 năm đổi niên hiệu là Cảnh Thụy (1008 – 1009).Sang năm sau là năm Kỷ Dậu (1009) thì mất, làm vua được 4 năm, thọ 24 tuổi. Vì lúc sống dâm dục quá độ, mắc bệnh không ngồi được, đến buổi chầu thì cứnằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Ngọa triều. Long Đĩnh mất rồi, con thì bé, đình thần nhân dịp tôn Lý Công Uẩn lên làmvua, khai sáng nên cơ nghiệp nhà Lý. Nhà Tiền Lê làm vua được 3 đ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nhà Tiền Lê (980 – 1009) Nhà Tiền Lê (980 – 1009) 1. Lê Đại Hành 2. Phá quân nhà Tống 3. Đánh Chiêm Thành 4. Việc đánh dẹp và sửa sang trong nước 5. Lê Trung Tông 6. Lê Long Đĩnh 1. LÊ ĐẠI HÀNH (980 – 1005). Lê Hoàn là người làng Bảo Thái, huyện ThanhLiêm, tỉnh Hà Nam bây giờ, làm quan Thập Đạo tướng quân nhà Đinh. Nhân khivua nhà Đinh còn trẻ tuổi, và lại có quân nhà Tống sang xâm lược, quân sĩ tôn LêHoàn lên làm vua, tức là Đại Hành Hoàng đế, niên hiệu là Thiên Phúc (980 – 988),Hưng Thống (989 – 993), và Ứng Thiên (994 – 1005). Vua Đại Hành lên làm vua rồi sai sứ đưa thư sang nhà Tống nói dối là thư củaĐinh Tuệ (Phế Đế) xin phong, có ý để nhà Tống hoãn bình lại. Nhưng vua nhàTống không nghe, sai sứ sang trách Đại Hành rằng sao được xưng đế, và lại nóirằng: “Nhà Đinh truyền tập đã ba đời rồi, vậy cho Đinh Tuệ làm Thống soái, LêHoàn làm phó. Nhược bằng Đinh Tuệ còn trẻ tuổi, không làm được, thì Lê Hoànphải bắt mẹ con Đinh Tuệ sang chầu Bắc triều, rồi sẽ phong quan t ước cho LêHoàn”. Vua Đại Hành biết mưu nhà Tống bèn không chịu và sửa sang phòng bị. 2. PHÁ QUÂN NHÀ TỐNG. Nhà Tống thấy vua Đại Hành không chịu nghelời, bèn sai tướng đem quân sang đánh. Tháng 3 năm Tân Tị (981) thì bọn HầuNhân Bảo và Tôn Toàn Hưng tiến quân sang mặt Lạng Sơn, bọn Lưu Trừng đemthủy quân sang mặt Bạch Đằng Giang. Vua Đại Hành đem binh thuyền ra chống giữ ở Bạch Đằng. Quân nhà Tống tiếnlên thế mạnh lắm, quan quân đánh không lại phải lùi. Bấy giờ lục quân của bọnHầu Nhân Bảo tiến sang đến Chi Lăng (thuộc Ôn Châu, Lạng Sơn), vua Đại Hànhsai người sang trá hàng để dụ Hầu Nhân Bảo đến chỗ hiểm bắt chém đi, rồi đuổiđánh quân nhà Tống chém giết được quá nửa, và bắt được hai người bộ tướng. Bọn Lưu Trừng thấy lục quân đã tan vỡ, vội vàng đem thủy quân rút về. Quân ta tuy thắng trận, nhưng vua Đại Hành sợ thế lực không chống với Tàuđược lâu, bèn sai sứ đem hai viên tướng bắt được sang trả nhà Tống và xin theo lệtriều cống. Lúc ấy ở phía Bắc nước Tàu có quân Khiết Đan (Hung Nô) đang đánhphá, cho nên vua nhà Tống cũng thuận, thôi việc chiến tranh với nước ta, và phongcho vua Đại Hành làm chức Tiết độ sứ. Năm Quý Tị (993) nhà Tống sách phong cho vua Đại Hành làm Giao Chỉ QuậnVương, rồi đến năm Đinh Dậu (997) lại gia phong là Nam Bình Vương. Bấy giờ sứ nhà Tống thường hay đi lại,có khi vua Đại Hành phụng chiếu màkhông lạy, nói dối rằng đi đánh giặc ngã ngựa đau chân. Nhà Tống biết là nói dối,nhưng đành làm ngơ đi. 3. ĐÁNH CHIÊM THÀNH. Vua Đại Hành phá được quân nhà Tống rồi, địnhsang đánh Chiêm Thành, vì lúc vua Đại Hành lên ngôi, có sai sứ sang ChiêmThành, bị vua nước ấy bắt giam sứ lại. Đến khi việc phía bắc đã yên, vua ĐạiHành đem binh sang báo thù. Quân vua Đại Hành sang chiếm giữ được kinh thànhnước Chiêm và bắt được người, lấy được của rất nhiều. Từ đấy nước Chiêm Thànhphải sang triều cống nước ta. 4. VIỆC ĐÁNH DẸP VÀ SỬA SANG TRONG NƯỚC. Việc trong nước thì cócác quan đại thần là bọn Từ Mục, Phạm Cự Lượng, Ngô Tử An giúp rập. Đặt luậtlệ, luyện quân lính và sửa sang mọi việc. Bấy giờ thường hay có các động Mường và những người các châu quận làmphản, vua Đại Hành phải thân chinh đi đánh dẹp, bình được 49 động Hà Man(thuộc huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa) và dẹp yên những người phản nghịchở các nơi. Bởi vậy thanh thế vua Đại Hành lúc bấy giờ rất là lừng lẫy. Năm Ất Tị (1005) là năm Ứng Thiên thứ 12, vua Đại Hành mất, thọ 65 tuổi,làm vua được 24 năm. 5.LÊ TRUNG TÔNG (1005). Vua Đại Hành đã định cho người con thứ ba làLong Việt làm thái tử, nhưng đến lúc vua Đại Hành mất, các hoàng tử tranh ngôiđánh nhau trong bảy tháng. Đến khi Long Việt vừa mới lên ngôi được 3 ngày thìbị em là Long Đĩnh sai người vào cung giết đi, thọ 23 tuổi. Sử gọi là Lê TrungTông. 6. LÊ LONG ĐĨNH (1005 – 1009). Long Đĩnh là người bạo ngược, tính haychém giết, ác bằng Kiệt, Trụ ngày xưa. Khi đã giết anh rồi, lên làm vua thường cứlấy sự giết người làm trò chơi: có khi những tù phạm phải hình, thì bắt lấy rơmtẩm dầu quấn vào người rồi đốt sống; có khi bắt tù trèo lên cây rồi ở dưới saingười chặt gốc cho cây đổ; có khi bỏ người vào sọt rồi đem thả xuống sông. Làmnhững điều ác như thế thì lấy làm thích chí. Một hôm lấy mía để lên đầu nhà sưmà róc vỏ, rồi thỉnh thoảng giả tảng nhỡ tay bổ dao vào đầu sư chảy máu ra, trôngthấy thế lấy làm vui cười. Còn khi ra buổi chầu, có ai tấu sớ điều gì thì cho nhữngthằng hề nói khôi hài hay là nhại tiếng làm trò. Long Đĩnh làm vua được 2 năm đổi niên hiệu là Cảnh Thụy (1008 – 1009).Sang năm sau là năm Kỷ Dậu (1009) thì mất, làm vua được 4 năm, thọ 24 tuổi. Vì lúc sống dâm dục quá độ, mắc bệnh không ngồi được, đến buổi chầu thì cứnằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Ngọa triều. Long Đĩnh mất rồi, con thì bé, đình thần nhân dịp tôn Lý Công Uẩn lên làmvua, khai sáng nên cơ nghiệp nhà Lý. Nhà Tiền Lê làm vua được 3 đ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
cải cách xã hội xã hội phong kiến vương triều phong kiến triều đại phong kiến việt nam lịch sử việt nam thời phong kiếnTài liệu có liên quan:
-
TIỂU LUẬN LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
5 trang 71 0 0 -
Công tác công văn, giấy tờ thời phong kiến Việt Nam: Phần 1
98 trang 55 1 0 -
Chính sách dân tộc Việt Nam (Thế kỷ XI - đến giữa thế kỷ XIX)
82 trang 40 0 0 -
6 trang 28 0 0
-
Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Tập 2: Chủ nghĩa duy vật lịch sử): Phần 2
112 trang 27 0 0 -
Lược sử Việt Nam: Phần 1 - Trần Hồng Đức
313 trang 25 0 0 -
3 trang 22 0 0
-
Nhà Hồ giai đoạn thuộc Minh (1400 - 1428) 1
6 trang 22 0 0 -
Quan hệ bang giao và những sứ thần tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam: Phần 1
103 trang 22 0 0 -
Nhà Mạc - Nam Bắc Triều (1527 - 1592) 3
6 trang 21 0 0