
NHẬN DIỆN SƠN MÀI TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH GIAO LƯU VÀ HỘI NHẬP
Số trang: 16
Loại file: pdf
Dung lượng: 184.73 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghệ thuật sơn mài Việt Nam hơn hai nghìn năm đồng hành cùng các thợ thủ công, nghệ nhân, họa sĩ tâm huyết. Họ luôn tìm tòi, nghiên cứu làm giàu đẹp thêm tiềm năng lớn lao của chất liệu độc đáo này từ một chất liệu trang trí cổ truyền đã trở thành chất liệu nghệ thuật. Tính truyền thống ấy càng đậm đà hơn qua bàn tay điêu luyện và yêu nghề của các người thợ, nghệ nhân, nghệ sĩ nhiều thế hệ đã biết tiếp thu tinh hoa nghệ thuật thế giới làm phong phú thêm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NHẬN DIỆN SƠN MÀI TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH GIAO LƯU VÀ HỘI NHẬP NHẬN DIỆN SƠN MÀI TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH GIAO LƯU VÀ HỘI NHẬP HOÀNG TRẦM-Nữ pháo binh ngư thủy-sơn mài Nghệ thuật sơn mài Việt Nam hơn hai nghìn năm đồng hành cùng các thợ thủ công, nghệ nhân, họa sĩ tâm huyết. Họ luôn tìm tòi, nghiên cứu làm giàu đẹp thêm tiềm năng lớn lao của chất liệu độc đáo này từ một chất liệu trang trí cổ truyền đã trở thành chất liệu nghệ thuật. Tính truyền thống ấy càng đậm đà hơn qua bàn tay điêu luyện và yêu nghề của các người thợ, nghệ nhân, nghệ sĩ nhiều thế hệ đã biết tiếp thu tinh hoa nghệ thuật thế giới làm phong phú thêm ngôn ngữ của sơn mài Việt Nam hiện đại. Từ thực tế sáng tác phong phú, đa dạng của thời kỳ có quá nhiều khúc xạ trong nghệ thuật hiện nay, một điều chúng ta nhận thấy là: Nếu như trước đây, khi tiếp xúc với những sản phẩm sơn mài ứng dụng, người nước ngoài không khỏi khâm phục kỹ thuật điêu luyện, tinh xảo của quá trình chế tác cũng như sự phong phú, tinh tế trong chi tiết và kiểu dáng của mỗi sản phẩm thì ngày nay, điều đó khó tìm thấy trong phần lớn các sản phẩm; kể cả từ những làng nghề lâu năm hoặc công ty sơn mài nổi tiếng, hay trong lĩnh vực nghệ thuật hội họa. Nếu như trước đây các họa sĩ trẻ trường Mỹ thuật Đông Dương đã học tập và sử dụng kỹ thuật tạo hình, phối cảnh, màu sắc, bố cục của hội họa châu âu nhưng lại khắc họa được nét đặc sắc tâm hồn của phương Đông trong cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của mình, thì ngày nay, cũng với chất liệu ấy, các họa sĩ trẻ đang khoác cho nó một chiếc áo mới với đủ mọi màu sắc, xu hướng của thời đại. Đây là một tín hiệu đáng vui mừng nhưng đồng thời cũng là hồi chuông báo động về những khuynh hướng lệch lạc của một số họa sĩ chạy theo “kinh tế thị trường” đánh mất tính truyền thống của chất liệu dân tộc. Mặt khác, xuất phát từ thực tiễn trước một câu hỏi là vì đâu tranh sơn mài được đánh giá tốt như vậy, và hiện nay hướng phát triển như thế nào ? Sự đánh giá tốt về giá trị tranh sơn mài không chỉ nên căn cứ vào người thích nghệ thuật và thị trường bên ngoài - đó là một yếu tố - song chủ yếu là công chúng thưởng thức Việt Nam, những người đã làm nên xã hội mới với tất cả dáng dấp hiện thực sinh động của nó. Tuy nhiên, trong bối cảnh giao lưu và hội nhập ngày nay, cùng với xu hướng thương mại hóa nghệ thuật, một số họa sĩ làm tranh sơn mài theo kiểu “hàng chợ”, khiến cho nhiều tranh sơn mài không còn giữ được vẻ đẹp của sơn mài truyền thống. Việc chạy theo thị hiếu khách hàng với sự hào nhoáng của nhiều loại chất liệu “phi sơn ta” dẫn đến tình trạng sơn mài giả hiệu, kém phẩm chất đầy rẫy ở các cửa hàng, nhà sách, khu du lịch... Cũng bắt đầu có dư luận chê kỹ thuật theo truyền thống là cổ hủ và một loạt tranh sơn mài phủ bạc dập các màu xanh đỏ rồi phủ lên một lượt sơn bóng Nhật Bản đã xuất hiện làm cho vàng thau lẫn lộn, nghệ thuật chân thực và nghệ thuật giả mạo chen vai thích cánh nhau. Không chỉ với các hàng mỹ nghệ bị trả lại vì làm ăn dối giả, mà người ta đã bắt đầu chán với các tranh sơn mài giả hiệu đầy rẫy ở khắp nơi. Tác giả cũng như các cơ sở ấy chỉ biết chạy theo lợi nhuận mà quên mất nhiệm vụ duy trì và phát triển một loại hình nghệ thuật dân tộc rất độc đáo này. Từ những năm 1990, một lớp các họa sĩ trẻ đã và đang tiếp tục tìm tòi về chất liệu và ngôn ngữ nghệ thuật. Trên các tác phẩm của họ có thể gắn cả xi măng, bột đá, sỏi và mảnh cổ vật lên bề mặt tranh để tạo ấn tượng mới lạ. Như vậy có phải là một bức tranh sơn mài hay không ? Hay là, tranh sơn mài “hiện đại” đã đánh mất giá trị truyền thống? Tình hình ấy đáng đánh một hồi chuông báo động khiến cho mọi người thiết tha với sơn mài phải lưu tâm! Sơn mài, trước hết được hiểu như một thuật ngữ để chỉ về một loại hình, một chất liệu nghệ thuật có xuất xứ từ nghề sơn truyền thống của dân tộc với sự hiện diện của đồ sơn cổ truyền cho đến khi Trường Mỹ thuật Đông Dương ra đời năm 1925. Sự thể nghiệm, tìm tòi của các họa sĩ trẻ Trường Mỹ thuật Đông Dương như Trần Văn Cẩn, Trần Quang Trân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Khang..., và nghệ nhân Đinh Văn Thành đã cho ra đời tên gọi “Sơn mài” (laque poncée) với ý nghĩa: sơn - vẽ tranh bằng chất liệu sơn ta (một loại sơn được lấy từ nhựa cây sơn vùng Phú Thọ); mài - vẽ xong rồi mài (hay còn gọi là mài vẽ). Truyền thống, theo họa sĩ - nhà lý luận phê bình Nguyễn Quân đã viết, “như một khái niệm quan trọng trong thời đại giao lưu và thông tin ngày nay, thật không dễ định nghĩa”. Tuy nhiên phần ngữ nghĩa cốt lõi của nó theo suy nghĩ của ông, “truyền thống là sự lấy lại những suy nghĩ, những xúc cảm, những hành vi của một tập đoàn xã hội, của một con người hay một dân tộc. Truyền thống giúp cho con người giữ lại những thành quả của quá khứ để không phải làm lại từ đầu. Truyền thống vì thế là bậc thang để nhân loại tiến lên phía trước” (Tạp chí Nghiên cứu VHNT, số 4 (87), tr.16-20). Còn đối với họa sĩ Trần Huy Quang thì cho rằng: “Truyền thống là quá trình tập hợp những đúc kết mang tính chuyên môn; tập hợp các quan điểm đánh giá, các kinh nghiệm được thừa nhận, các cách sử dụng theo tập quán hoặc theo thói quen đã được thử thách qua thời gian, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác” (Sơn ta và nghề sơn truyền thống Việt Nam, NXB Mỹ thuật 2002, tr. 125) Sơn mài truyền thống Việt Nam được nhìn nhận qua các loại hình mang tính chuyên môn và lịch sử như sau: - Di vật đồ sơn trang trí, gắn liền với tôn giáo tín ngưỡng và trước hết là phục vụ cuộc sống tinh thần qua các đồ thờ trong chùa, đền, đình, cung điện. Các cột kiến trúc, hoành phi, cửa võng, câu đối, khám vật linh, tứ linh, tứ quý, bát bửu, bát quái, kiệu, võng, long đình, tranh thờ, tranh trang trí. Một số đồ sơn mang chức năng khác, bởi vì mỗi di vật tự thân nó đã chứa đựng chức năng thực dụng và chức năng thẩm mỹ. Việc phân loại những chức năng đồ sơn chỉ là tương đối nhưng những di vật phục vụ đời thường thì không thể là đồ thờ và ngược lại, những di vật chế tác phục vụ đồ thờ thì ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NHẬN DIỆN SƠN MÀI TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH GIAO LƯU VÀ HỘI NHẬP NHẬN DIỆN SƠN MÀI TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH GIAO LƯU VÀ HỘI NHẬP HOÀNG TRẦM-Nữ pháo binh ngư thủy-sơn mài Nghệ thuật sơn mài Việt Nam hơn hai nghìn năm đồng hành cùng các thợ thủ công, nghệ nhân, họa sĩ tâm huyết. Họ luôn tìm tòi, nghiên cứu làm giàu đẹp thêm tiềm năng lớn lao của chất liệu độc đáo này từ một chất liệu trang trí cổ truyền đã trở thành chất liệu nghệ thuật. Tính truyền thống ấy càng đậm đà hơn qua bàn tay điêu luyện và yêu nghề của các người thợ, nghệ nhân, nghệ sĩ nhiều thế hệ đã biết tiếp thu tinh hoa nghệ thuật thế giới làm phong phú thêm ngôn ngữ của sơn mài Việt Nam hiện đại. Từ thực tế sáng tác phong phú, đa dạng của thời kỳ có quá nhiều khúc xạ trong nghệ thuật hiện nay, một điều chúng ta nhận thấy là: Nếu như trước đây, khi tiếp xúc với những sản phẩm sơn mài ứng dụng, người nước ngoài không khỏi khâm phục kỹ thuật điêu luyện, tinh xảo của quá trình chế tác cũng như sự phong phú, tinh tế trong chi tiết và kiểu dáng của mỗi sản phẩm thì ngày nay, điều đó khó tìm thấy trong phần lớn các sản phẩm; kể cả từ những làng nghề lâu năm hoặc công ty sơn mài nổi tiếng, hay trong lĩnh vực nghệ thuật hội họa. Nếu như trước đây các họa sĩ trẻ trường Mỹ thuật Đông Dương đã học tập và sử dụng kỹ thuật tạo hình, phối cảnh, màu sắc, bố cục của hội họa châu âu nhưng lại khắc họa được nét đặc sắc tâm hồn của phương Đông trong cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của mình, thì ngày nay, cũng với chất liệu ấy, các họa sĩ trẻ đang khoác cho nó một chiếc áo mới với đủ mọi màu sắc, xu hướng của thời đại. Đây là một tín hiệu đáng vui mừng nhưng đồng thời cũng là hồi chuông báo động về những khuynh hướng lệch lạc của một số họa sĩ chạy theo “kinh tế thị trường” đánh mất tính truyền thống của chất liệu dân tộc. Mặt khác, xuất phát từ thực tiễn trước một câu hỏi là vì đâu tranh sơn mài được đánh giá tốt như vậy, và hiện nay hướng phát triển như thế nào ? Sự đánh giá tốt về giá trị tranh sơn mài không chỉ nên căn cứ vào người thích nghệ thuật và thị trường bên ngoài - đó là một yếu tố - song chủ yếu là công chúng thưởng thức Việt Nam, những người đã làm nên xã hội mới với tất cả dáng dấp hiện thực sinh động của nó. Tuy nhiên, trong bối cảnh giao lưu và hội nhập ngày nay, cùng với xu hướng thương mại hóa nghệ thuật, một số họa sĩ làm tranh sơn mài theo kiểu “hàng chợ”, khiến cho nhiều tranh sơn mài không còn giữ được vẻ đẹp của sơn mài truyền thống. Việc chạy theo thị hiếu khách hàng với sự hào nhoáng của nhiều loại chất liệu “phi sơn ta” dẫn đến tình trạng sơn mài giả hiệu, kém phẩm chất đầy rẫy ở các cửa hàng, nhà sách, khu du lịch... Cũng bắt đầu có dư luận chê kỹ thuật theo truyền thống là cổ hủ và một loạt tranh sơn mài phủ bạc dập các màu xanh đỏ rồi phủ lên một lượt sơn bóng Nhật Bản đã xuất hiện làm cho vàng thau lẫn lộn, nghệ thuật chân thực và nghệ thuật giả mạo chen vai thích cánh nhau. Không chỉ với các hàng mỹ nghệ bị trả lại vì làm ăn dối giả, mà người ta đã bắt đầu chán với các tranh sơn mài giả hiệu đầy rẫy ở khắp nơi. Tác giả cũng như các cơ sở ấy chỉ biết chạy theo lợi nhuận mà quên mất nhiệm vụ duy trì và phát triển một loại hình nghệ thuật dân tộc rất độc đáo này. Từ những năm 1990, một lớp các họa sĩ trẻ đã và đang tiếp tục tìm tòi về chất liệu và ngôn ngữ nghệ thuật. Trên các tác phẩm của họ có thể gắn cả xi măng, bột đá, sỏi và mảnh cổ vật lên bề mặt tranh để tạo ấn tượng mới lạ. Như vậy có phải là một bức tranh sơn mài hay không ? Hay là, tranh sơn mài “hiện đại” đã đánh mất giá trị truyền thống? Tình hình ấy đáng đánh một hồi chuông báo động khiến cho mọi người thiết tha với sơn mài phải lưu tâm! Sơn mài, trước hết được hiểu như một thuật ngữ để chỉ về một loại hình, một chất liệu nghệ thuật có xuất xứ từ nghề sơn truyền thống của dân tộc với sự hiện diện của đồ sơn cổ truyền cho đến khi Trường Mỹ thuật Đông Dương ra đời năm 1925. Sự thể nghiệm, tìm tòi của các họa sĩ trẻ Trường Mỹ thuật Đông Dương như Trần Văn Cẩn, Trần Quang Trân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Khang..., và nghệ nhân Đinh Văn Thành đã cho ra đời tên gọi “Sơn mài” (laque poncée) với ý nghĩa: sơn - vẽ tranh bằng chất liệu sơn ta (một loại sơn được lấy từ nhựa cây sơn vùng Phú Thọ); mài - vẽ xong rồi mài (hay còn gọi là mài vẽ). Truyền thống, theo họa sĩ - nhà lý luận phê bình Nguyễn Quân đã viết, “như một khái niệm quan trọng trong thời đại giao lưu và thông tin ngày nay, thật không dễ định nghĩa”. Tuy nhiên phần ngữ nghĩa cốt lõi của nó theo suy nghĩ của ông, “truyền thống là sự lấy lại những suy nghĩ, những xúc cảm, những hành vi của một tập đoàn xã hội, của một con người hay một dân tộc. Truyền thống giúp cho con người giữ lại những thành quả của quá khứ để không phải làm lại từ đầu. Truyền thống vì thế là bậc thang để nhân loại tiến lên phía trước” (Tạp chí Nghiên cứu VHNT, số 4 (87), tr.16-20). Còn đối với họa sĩ Trần Huy Quang thì cho rằng: “Truyền thống là quá trình tập hợp những đúc kết mang tính chuyên môn; tập hợp các quan điểm đánh giá, các kinh nghiệm được thừa nhận, các cách sử dụng theo tập quán hoặc theo thói quen đã được thử thách qua thời gian, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác” (Sơn ta và nghề sơn truyền thống Việt Nam, NXB Mỹ thuật 2002, tr. 125) Sơn mài truyền thống Việt Nam được nhìn nhận qua các loại hình mang tính chuyên môn và lịch sử như sau: - Di vật đồ sơn trang trí, gắn liền với tôn giáo tín ngưỡng và trước hết là phục vụ cuộc sống tinh thần qua các đồ thờ trong chùa, đền, đình, cung điện. Các cột kiến trúc, hoành phi, cửa võng, câu đối, khám vật linh, tứ linh, tứ quý, bát bửu, bát quái, kiệu, võng, long đình, tranh thờ, tranh trang trí. Một số đồ sơn mang chức năng khác, bởi vì mỗi di vật tự thân nó đã chứa đựng chức năng thực dụng và chức năng thẩm mỹ. Việc phân loại những chức năng đồ sơn chỉ là tương đối nhưng những di vật phục vụ đời thường thì không thể là đồ thờ và ngược lại, những di vật chế tác phục vụ đồ thờ thì ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
nghiên cứu mỹ thuật mỹ thuật đương đại kiến thức mỹ thuật danh họa tác phẩm hội họa mỹ thuật truyền thôngTài liệu có liên quan:
-
Tranh biếm họa trào phúng của họa sỹ Pawel Kuczynski
10 trang 348 0 0 -
Một số tác giả, tác phẩm của hội họa cách mạng Việt Nam
39 trang 99 0 0 -
7 trang 88 0 0
-
10 trang 64 0 0
-
Sơ lược về Mỹ thuật thời Trần (1226-1400)
10 trang 63 0 0 -
CHÂN DUNG HỌA SỸ NGUYỄN GIA TRÍ
3 trang 53 1 0 -
TRANH GƯƠNG CUNG ĐÌNH MỸ THUẬT HUẾ
7 trang 49 0 0 -
QUANG LONG TỰ CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC ĐỘC ĐÁO
5 trang 48 0 0 -
MỖI BỨC TRANH MỸ THUẬT - MỘT TẤM LÒNG
11 trang 48 0 0 -
ĐÔI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT MỸ THUẬT SƠN MÀI VIỆT NAM
8 trang 46 0 0 -
5 trang 44 0 0
-
CON CHUỘT TRÊN GỐM CỔ MỸ THUẬT
6 trang 43 0 0 -
CON ĐƯỜNG GỐM SỨ MỸ THUẬT-TỪ Ý TƯỞNG ĐẾN HIỆN THỰC
7 trang 43 0 0 -
NỖI NIỀM TRONG TRANH NGUYỄN HỒNG PHI
5 trang 42 0 0 -
CHÙA THẦY ĐỘC ĐÁO NÉT KIẾN TRÚC XỨ ĐOÀI XƯA
6 trang 41 0 0 -
MỸ THUẬT CUỐI ĐỜI MANG TÊN 'CARNET DE ĐÀO ĐỨC'
5 trang 40 0 0 -
CỐ HOẠ SĨ NGUYỄN THUỶ TUÂN - CUỘC ĐỜI VÀ NGHỆ THUẬT
5 trang 40 1 0 -
Tạp chí Thông tin - Số 25+26 (1/2009)
68 trang 40 0 0 -
TEM TẾT VIỆT NAM ĐÓN CÁC NĂM SỬU
5 trang 39 0 0 -
MỸ THUẬT ỨNG DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
10 trang 39 0 0