Danh mục tài liệu

Những bài thuốc trị bệnh bằng trái cây - Phần 7

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 104.12 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nhà thơ đời Đường là Vương Duy từng viết: "Bão thực bất tu sầu nội nhiệt, đại quan hàm hữu giá tương hàn" (Ăn no xin chớ lo nội nhiệt, quan lớn hãy còn nước mía hàn). Qua đó, có thể thấy tác dụng thanh nhiệt tiêu cơm, giải độc của mía, đã được người xưa biết đến từ lâu. Truyền thuyết kể rằng: Ngụy Văn đế Tào Phi thời Tam Quốc thích ăn mía. Mỗi khi ông ta bàn việc quốc gia đại sự với các đại thần đều sai thuộc hạ để sẵn mía đã rửa sạch,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những bài thuốc trị bệnh bằng trái cây - Phần 7 Những bài thuốc trị bệnh bằng trái cây Phần 1: Đặc tính và cách sử dụng trái cây chữa bệnh Mía: Thang thuốc phục mạch trong thiên nhiên Nhà thơ đời Đường là Vương Duy từng viết: Bão thực bất tu sầu nộinhiệt, đại quan hàm hữu giá tương hàn (Ăn no xin chớ lo nội nhiệt, quanlớn hãy còn nước mía hàn). Qua đó, có thể thấy tác dụng thanh nhiệt tiêucơm, giải độc của mía, đã được người xưa biết đến từ lâu. Truyền thuyết kể rằng: Ngụy Văn đế Tào Phi thời Tam Quốc thích ănmía. Mỗi khi ông ta bàn việc quốc gia đại sự với các đại thần đều sai thuộchạ để sẵn mía đã rửa sạch, vừa ăn vừa bàn công việc. Bàn việc nước xong,khi bãi triều ông ta lại cầm cây mía làm gậy chống để đi. Trong dân gian Trung Quốc còn lưu truyền tập tục ngày tết đến, họhàng bà con tặng mía với ý nghĩa từng đốt từng đốt cao lên, năm nay tốt hơnnăm trước. Danh y Vương Thế Hùng đời nhà Thanh đã viết trong cuốn Tùy tứccư ẩm thực phổ rằng: Mía ngọt mát, thanh nhiệt, điều hòa chức năng dạdày, nhuận tràng, giã rượu, hạn chế giun đũa, tan đờm, tăng chất dịch, dùngchữa sốt cao, kiết lỵ do nóng trong, trị ho do nhiệt, ợ hơi, lợi cho hầu họng,mạnh gân cốt, trừ phong, dưỡng huyết, đại bổ âm tỳ. Trên lâm sàng, đông ythường dùng mía để điều trị các chứng khô miệng lưỡi, tân dịch thiếu, táobón, rối loạn tiêu hóa, nôn mửa ợ hơi, khó tiểu tiện, sốt cao. Vì vậy míađược mệnh danh là phục mạch thang tự nhiên. Y học hiện đại qua nghiên cứu cho biết trong mía giàu protein, lipit,canxi, phốt pho, sắt, vitamin, đặc biệt hàm lượng đường khoảng 18%. Thànhphần đường trong mía gồm 3 loại: xacarô, glucô và glucôza dễ được cơ thểhấp thụ, có tác dụng phòng bệnh đái tháo đường, bệnh về răng và phòngngừa lipit máu tăng. Loại gỉ mật còn có tác dụng hạn chế tế bào ung thư. Các bài thuốc chữa bệnh bằng mía: Viêm dạ dày mạn tính: Nước mía 1 cốc, nước gừng một ít, trộn đều,ngày uống 2 lần. Sốt phiền khát: Mía, củ năn vừa đủ dùng: rửa sạch, thái vụn, sắc uốngthay nước chè. Ho do hư nhiệt: Mía vừa đủ dùng cắt vụn, đổ gạo dính vào nấu chè ănmỗi ngày 2 lần vào buổi sáng - chiều, mỗi lần 1 bát. Táo bón: Nước mía, mật ong mỗi thứ 1 cốc nhỏ, trộn đều uống lúc đói,ngày 2 lần vào buổi sáng, buổi chiều. Buồn nôn do thai nghén: Nước mía 1 cốc, nước gừng tươi 1 thìa, ngàyuống vài lần. Trẻ em ra mồ hôi trộm: Ăn mía hoặc uống nước mía vài lần trongngày. Khó tiểu tiện: Mía rửa sạch, thái vụn, râu ngô, sa tiền thảo, sắc uốngngày 2 lần (sáng - chiều). Quả đào trường thọ Nói đến đào, người ta dễ liên tưởng đến câu chuyện Tôn Ngộ Khôngđại náo thiên cung ăn trộm đào tiên trong Tây du ký. Thứ đào tiên 3000năm nở hoa, 3000 năm kết qủa khiến cho Mỹ Hầu Vương ăn không biếtchán. Đào thường nặng 250 gam, có qủa to nặng hơn 500 gam. Qủa đào cóhình dáng và màu sắc đẹp, ăn ngọt thơm, nước qủa rất nhiều. Không phải ngẫu nhiên mà người ta ghép đào với tiên với trườngthọ thành đào tiên, đào trường thọ. Hoa đào rực rỡ, qủa đào dáng đẹp,ăn ngon, chứa nhiều thành phần dinh dưỡng, có giá trị chữa bệnh bảo vệ sứckhỏe rất cao. Trong 100 gam cùi thịt của qủa đào chứa 0,8 gam prôtêin, 0,1gam lipit, 7 gam gluxit, 8 mg vitamin B1, 2 mg vitamin B2, 6 mg vitamin C,cùng một số loại axit hữu cơ, đường glucô, glucôza. Có thể thấy qủa đàođúng là thứ qủa thượng hạng, kéo dài tuổi thọ. Nhân hạt đào, hoa đào, lá, cành, rễ đào, nhựa đào đều là những vịthuốc qúy. Nhân hạt đào (đào nhân) vị đắng ngọt, tính bình, có công hiêu pháhuyết tan ứ, nhân táo trơn ruột, có tác dụng hoạt huyết hành huyết, làm tanhuyết tự ứ, làm tan đờm, nhuận tràng, điều hòa chức năng cơ quan hô hấp,giảm ho. Trong điều trị lâm sàng, đào nhân còn thường dùng chữa trị bế kinh,đau bụng kinh, cao huyết áp, viêm ruột thừa, tụ huyết sưng đau do chấnthương. Đối với chứng liệt nửa người do tắc nghẽn mạch máu, đào nhâncũng có tác dụng điều trị nhất định. Rễ đào dùng ngoài da có tác dụng chữa sưng đau, sắc uống có thểchữa bệnh viêm gan vàng da. Nhựa đào có thể chữa kiết lỵ ra máu, đái tháo đường, viêm phế quản. Cành đào: Lấy 6 - 8 cành non, mỗi cành có 6 - 8 lá nhỏ, sắc uốngtrước khi lên cơn sốt rét 2 giờ có khả năng không chế được sốt rét cơn. Hoa đào: Dầu hoa đào trộn với kem bôi mặt làm da mặt mịn màng.Hoa đào trộn với cùi bí đao chữa được tàn nhang trên mặt, nếu uống có tácdụng lợi tiểu, điều trị phúc thủy (báng nước) có hiệu qủa khá tốt. Hoa đàonấu cháo là bài thuốc hay làm hạ khí, tiêu báng nước. Lá đào chẳng những tôn vẻ đẹp của hoa đào mà còn là thứ thuốc diệtsâu bọ, lá đào đem ngâm vào chỗ nước tù đọng dùng diệt bọ gậy, thả xuốnghố xí giết được giòi. Lá đào đun lấy nước chữa lở ngứa, ghẻ, phụ nữ viêmâm đạo. Nếu bị ghẻ nặng, đem lá đào phơi khô trong b ...