Những yếu tố quyết định khả năng tiếp cận bảo hiểm y tế ở Việt Nam - Đặng Nguyên Anh
Số trang: 0
Loại file: pdf
Dung lượng: 431.98 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết "Những yếu tố quyết định khả năng tiếp cận bảo hiểm y tế ở Việt Nam" giới thiệu đến các bạn tình hình bảo hiểm y tế trong cư dân, bảo hiểm y tế của người nghèo, bảo hiểm y tế lao động di cư ra thành thị,... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung bài viết để nắm bắt nội dung chi tiết.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những yếu tố quyết định khả năng tiếp cận bảo hiểm y tế ở Việt Nam - Đặng Nguyên Anh 44 Xã hội học, số 1 - 2007 Những yếu tố quyết định khả năng tiếp cận bảo hiểm y tế ở Việt Nam Đặng Nguyên Anh và cộng sự 1 Trong suốt 20 năm Đổi mới và phát triển, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước, đặc biệt trong sự nghiệp xoá đói, giảm nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu thu được, quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường cũng bộc lộ những tác động tiêu cực đến đời sống xã hội mà trong đó an sinh xã hội là một trong những lĩnh vực chịu nhiều sức ép. “Mở khoá” thành công cánh cửa WTO, nhiều cơ hội hợp tác và đầu tư sẽ đến với Việt Nam. Song cùng với tiến trình này hàng loạt vấn đề hết sức gay gắt về an sinh xã hội chưa được giải quyết, đặc biệt trong lĩnh vực bảo hiểm y tế và an sinh xã hội trong nhóm thu nhập thấp, đặc biệt là người nghèo. Động thái phát triển mới của dân số Việt Nam đang đặt ra những cơ hội và thách thức về an sinh xã hội mặc dù mức sinh đã được kiểm soát. Trong những thập niên vừa qua, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm không hề giảm, cùng với tốc độ tăng giá, lạm phát quá nhanh đã và đang làm suy yếu thêm nguồn lực bảo trợ vốn quá ít ỏi hiện nay của gia đình, cộng đồng. Tình trạng người dân phải hy sinh các nhu cầu thiết yếu như nhà ở, học hành, khám chữa bệnh,... là một trong những thách thức lớn đối với mục tiêu phát triển bền vững và giảm nghèo. Nhiều gia đình phải chịu đựng gánh nặng bệnh tật do không thể chi trả dịch vụ khám chữa và điều trị. Bài viết này tìm hiểu khả năng sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh và tiếp cận bảo hiểm y tế của người dân trong xã hội, tập trung vào ba nhóm dân cư cơ bản là: Người nghèo ở nông thôn, Lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và cán bộ công chức ở đô thị. Ba nhóm này rất khác nhau về đặc trưng xã hội và lợi thế gắn liền với nghề nghiệp, nguồn lực kinh tế và vốn xã hội. So sánh mức độ tiếp cận dịch vụ y tế của ba nhóm nhân khẩu - xã hội trên sẽ giúp làm sáng tỏ những yếu tố quyết định (chung và đặc thù) về khả năng tiếp cận bảo hiểm y tế vốn còn nhiều bất cập hiện nay. Câu hỏi đặt ra là tình hình bảo hiểm y tế trong dân cư hiện nay ra sao? Những vấn đề nào hiện đang là rào cản đối với việc mở rộng độ che phủ của chương trình bảo hiểm y tế ra đối với các nhóm dân cư nói trên? Những nhân tố nhân khẩu và kinh tế - xã hội nào quyết định khả năng tiếp cận bảo hiểm y tế hiện nay và mở rộng độ che phủ bảo của hiểm y tế ở nước ta. Trả lời được các câu hỏi trên sẽ tạo cơ sở khoa học cho việc thực hiện các can thiệp chính sách về an sinh xã hội và khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế cho nhân dân. Bài viết sử dụng kỹ thuật phân tích số liệu định lượng, sử dụng các 1 Những người thực hiện: Nguyễn Đức Vinh, Nguyễn Thanh Liêm, Nguyễn Thị Vân Anh, Trần Cao Sơn, Nghiêm Thị Thủy, Nguyễn Thị Lan. Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org Đặng Nguyên Anh và cộng sự 45 bộ số liệu quốc gia chưa được khai thác. Việc áp dụng kỹ thuật hồi quy đa biến cho phép xác định được các yếu tố quyết định khả năng tiếp cận bảo hiểm y tế cũng như dự báo được triển vọng phát triển của hệ thống bảo hiểm y tế trong những năm tới. 1. Tình hình bảo hiểm y tế trong dân cư Theo con số thống kê, năm 2006 có khoảng 30,5 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, tương đương 36% dân số, trong đó có 20,8 triệu thẻ bảo hiểm y tế bắt buộc và 9,7 triệu thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện (Hồng Ninh, 2006). Tuy nhiên cho đến hiện nay, mức độ che phủ bảo hiểm y tế ở nước ta vẫn thấp (chưa đến 20% hay 1/5 dân số). Đối tượng tập trung chủ yếu ở nhóm bảo hiểm y tế bắt buộc và học sinh. Đặc biệt là nguồn thu từ bảo hiểm y tế chỉ đảm nhiệm được 6,1% trong tổng chi phí cho việc khám chữa bệnh của cả nước (Hình 1). Đa số vẫn phải do người bệnh tự chi trả (63%). Phần còn lại là do ngân sách nhà nước và các nguồn hỗ trợ bên ngoài (32%). Rõ ràng là gánh nặng tài chính cho khám chữa bệnh, viện phí là rất lớn đối với các gia đình có thu nhập thấp hoặc trung bình. Đây là bất cập, thách thức đối với chương trình bảo hiểm y tế trước mục tiêu thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân vào năm 2010. nGuån thanh to¸n kh¸m ch÷a bÖnh ë ViÖt Nam, 2004 6.1 8.8 22.4 62.7 B¶o hiÓm Y-tÕ Hç trî quèc tÕ Ng©n s¸ch nhμ n−íc Ng−êi bÖnh tù chi tr¶ Số liệu Bảng 1 cho thấy mức độ tham gia bảo hiểm y tế tập trung vào nhóm tham gia b ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những yếu tố quyết định khả năng tiếp cận bảo hiểm y tế ở Việt Nam - Đặng Nguyên Anh 44 Xã hội học, số 1 - 2007 Những yếu tố quyết định khả năng tiếp cận bảo hiểm y tế ở Việt Nam Đặng Nguyên Anh và cộng sự 1 Trong suốt 20 năm Đổi mới và phát triển, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước, đặc biệt trong sự nghiệp xoá đói, giảm nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu thu được, quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường cũng bộc lộ những tác động tiêu cực đến đời sống xã hội mà trong đó an sinh xã hội là một trong những lĩnh vực chịu nhiều sức ép. “Mở khoá” thành công cánh cửa WTO, nhiều cơ hội hợp tác và đầu tư sẽ đến với Việt Nam. Song cùng với tiến trình này hàng loạt vấn đề hết sức gay gắt về an sinh xã hội chưa được giải quyết, đặc biệt trong lĩnh vực bảo hiểm y tế và an sinh xã hội trong nhóm thu nhập thấp, đặc biệt là người nghèo. Động thái phát triển mới của dân số Việt Nam đang đặt ra những cơ hội và thách thức về an sinh xã hội mặc dù mức sinh đã được kiểm soát. Trong những thập niên vừa qua, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm không hề giảm, cùng với tốc độ tăng giá, lạm phát quá nhanh đã và đang làm suy yếu thêm nguồn lực bảo trợ vốn quá ít ỏi hiện nay của gia đình, cộng đồng. Tình trạng người dân phải hy sinh các nhu cầu thiết yếu như nhà ở, học hành, khám chữa bệnh,... là một trong những thách thức lớn đối với mục tiêu phát triển bền vững và giảm nghèo. Nhiều gia đình phải chịu đựng gánh nặng bệnh tật do không thể chi trả dịch vụ khám chữa và điều trị. Bài viết này tìm hiểu khả năng sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh và tiếp cận bảo hiểm y tế của người dân trong xã hội, tập trung vào ba nhóm dân cư cơ bản là: Người nghèo ở nông thôn, Lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và cán bộ công chức ở đô thị. Ba nhóm này rất khác nhau về đặc trưng xã hội và lợi thế gắn liền với nghề nghiệp, nguồn lực kinh tế và vốn xã hội. So sánh mức độ tiếp cận dịch vụ y tế của ba nhóm nhân khẩu - xã hội trên sẽ giúp làm sáng tỏ những yếu tố quyết định (chung và đặc thù) về khả năng tiếp cận bảo hiểm y tế vốn còn nhiều bất cập hiện nay. Câu hỏi đặt ra là tình hình bảo hiểm y tế trong dân cư hiện nay ra sao? Những vấn đề nào hiện đang là rào cản đối với việc mở rộng độ che phủ của chương trình bảo hiểm y tế ra đối với các nhóm dân cư nói trên? Những nhân tố nhân khẩu và kinh tế - xã hội nào quyết định khả năng tiếp cận bảo hiểm y tế hiện nay và mở rộng độ che phủ bảo của hiểm y tế ở nước ta. Trả lời được các câu hỏi trên sẽ tạo cơ sở khoa học cho việc thực hiện các can thiệp chính sách về an sinh xã hội và khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế cho nhân dân. Bài viết sử dụng kỹ thuật phân tích số liệu định lượng, sử dụng các 1 Những người thực hiện: Nguyễn Đức Vinh, Nguyễn Thanh Liêm, Nguyễn Thị Vân Anh, Trần Cao Sơn, Nghiêm Thị Thủy, Nguyễn Thị Lan. Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org Đặng Nguyên Anh và cộng sự 45 bộ số liệu quốc gia chưa được khai thác. Việc áp dụng kỹ thuật hồi quy đa biến cho phép xác định được các yếu tố quyết định khả năng tiếp cận bảo hiểm y tế cũng như dự báo được triển vọng phát triển của hệ thống bảo hiểm y tế trong những năm tới. 1. Tình hình bảo hiểm y tế trong dân cư Theo con số thống kê, năm 2006 có khoảng 30,5 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, tương đương 36% dân số, trong đó có 20,8 triệu thẻ bảo hiểm y tế bắt buộc và 9,7 triệu thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện (Hồng Ninh, 2006). Tuy nhiên cho đến hiện nay, mức độ che phủ bảo hiểm y tế ở nước ta vẫn thấp (chưa đến 20% hay 1/5 dân số). Đối tượng tập trung chủ yếu ở nhóm bảo hiểm y tế bắt buộc và học sinh. Đặc biệt là nguồn thu từ bảo hiểm y tế chỉ đảm nhiệm được 6,1% trong tổng chi phí cho việc khám chữa bệnh của cả nước (Hình 1). Đa số vẫn phải do người bệnh tự chi trả (63%). Phần còn lại là do ngân sách nhà nước và các nguồn hỗ trợ bên ngoài (32%). Rõ ràng là gánh nặng tài chính cho khám chữa bệnh, viện phí là rất lớn đối với các gia đình có thu nhập thấp hoặc trung bình. Đây là bất cập, thách thức đối với chương trình bảo hiểm y tế trước mục tiêu thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân vào năm 2010. nGuån thanh to¸n kh¸m ch÷a bÖnh ë ViÖt Nam, 2004 6.1 8.8 22.4 62.7 B¶o hiÓm Y-tÕ Hç trî quèc tÕ Ng©n s¸ch nhμ n−íc Ng−êi bÖnh tù chi tr¶ Số liệu Bảng 1 cho thấy mức độ tham gia bảo hiểm y tế tập trung vào nhóm tham gia b ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Xã hội học Tiếp cận bảo hiểm y tế Bảo hiểm y tế ở Việt Nam Bảo hiểm y tế Bảo hiểm y tế người nghèo Bảo hiểm y tế cư dânTài liệu có liên quan:
-
Phương pháp nghiên cứu xã hội học: Phần 1 - Phạm Văn Quyết
123 trang 511 12 0 -
Tiểu luận: Lý thuyết xã hội học
40 trang 280 0 0 -
18 trang 232 0 0
-
21 trang 229 0 0
-
6 trang 217 0 0
-
Giới thiệu lý thuyết xã hội học Curriculum - Nguyễn Khánh Trung
0 trang 214 0 0 -
Đề tài báo cáo ' Xác định nhu cầu bảo hiểm y tế tự nguyện của nông dân văn giang - tỉnh hưng yên '
10 trang 208 0 0 -
Tìm hiểu 150 tình huống pháp luật về bảo hiểm xã hội - bảo hiểm y tế: Phần 1
101 trang 205 0 0 -
4 trang 199 0 0
-
Tổng quan về bảo hiểm xã hội - phần 1
10 trang 192 0 0