Quản trị thu nhập trong tình trạng kiệt quệ tài chính: Sự khác biệt giữa các công ty niêm yết và chưa niêm yết tại Việt Nam
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 553.97 KB
Lượt xem: 28
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu này tập trung vào kiểm định và so sánh lựa chọn quản trị thu nhập ở các công ty niêm yết và chưa niêm yết khi đối mặt với kiệt quệ tài chính dựa trên mẫu 538 công ty phi tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2013-2019.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quản trị thu nhập trong tình trạng kiệt quệ tài chính: Sự khác biệt giữa các công ty niêm yết và chưa niêm yết tại Việt Nam QUẢN TRỊ THU NHẬP TRONG TÌNH TRẠNG KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH: SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT VÀ CHƯA NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM Hồ Thuỷ Tiên Trường Đại học Tài chính - Marketing Email: tienht@ufm.edu.vn Hồ Thu Hoài Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh Email: hoaiht@ueh.edu.vn Mã bài báo: JED-797 Ngày nhận: 19/07/2022 Ngày nhận bản sửa: 17/08/2022 Ngày duyệt đăng: 06/12/2022 Tóm tắt: Nghiên cứu này tập trung vào kiểm định và so sánh lựa chọn quản trị thu nhập ở các công ty niêm yết và chưa niêm yết khi đối mặt với kiệt quệ tài chính dựa trên mẫu 538 công ty phi tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2013-2019. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong bối cảnh kiệt quệ tài chính, cả công ty niêm yết và chưa niêm yết đều thực hiện quản trị thu nhập thông qua việc điều chỉnh hoạt động kinh doanh thực tế. Các phát hiện liên tục cho thấy các công ty niêm yết thực hiện các hành vi quản trị thu nhập nhiều hơn so với các công ty chưa niêm yết, đặc biệt đối với các công ty có mức độ đòn bẩy tài chính cao. Kết quả còn chỉ ra rằng cơ sở để các công ty lựa chọn chiến lược quản trị thu nhập là dựa vào xác suất chiến lược này bị phát hiện nhiều hay ít, thay vì xem xét đến chi phí của các công cụ quản trị thu nhập đó. Từ khóa: Giả thuyết “nhu cầu”, quản trị thu nhập, kiệt quệ tài chính, các công ty niêm yết và các công ty chưa niêm yết, giả thuyết “ hành vi cơ hội”. JEL Code: G23, G32. Earnings management in financial distress: A comparison between listed and unlisted firms in Vietnam Abstract: This study analyses and compares the earnings management behaviors of listed and unlisted firms in financial distress, based on a sample of 538 non-financial firms on Vietnam’s stock market during the 2013-2019 period. We document that both listed and unlisted firms manage their earnings by altering the real business activities rather than using accounting techniques based on discretionary accruals. In addition, listed firms are more likely to manage their earnings than unlisted firms. Our findings support the “opportunistic behavior” hypothesis in explaining the earnings management behaviors of listed entities in the context where firms rely heavily on debt, and the regulations cannot offer strong protection to creditors. Finally, firms consider the probability of being detected rather than the strategy costs when choosing earnings management tools. Keywords: “Demand” hypothesis, earnings management, financial distress, listed and unlisted firms, “Opportunistic behavior” hypothesis. JEL Codes: G23, G32. Số 309 tháng 3/2023 13 1. Giới thiệu Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng kiến số lượng các doanh nghiệp có nguy cơ bị hủy niêm yết gia tăng đáng kể mà nguyên nhân chủ yếu đến từ yếu kém trong kết quả hoạt động lỗ liên tục trong 3 năm. Ngoài ra, trong suốt thời gian tồn tại, các công ty cũng có thể bị suy giảm trong hiệu quả tài chính của mình bởi một số lý do khác như khủng hoảng kinh tế, gia tăng cạnh tranh, chiến lược kinh doanh yếu kém,… và gần đây nhất là do tác động của đại dịch Covid-19. Để ứng phó với khó khăn, các doanh nghiệp không còn cách nào là phải cắt giảm các khoản chi phí. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay cho thấy phần lớn các chương trình cắt giảm chi phí chỉ có thể “giải quyết tình thế” trong thời kỳ khó khăn do chi phí đầu vào tăng chứ chưa gắn kết chặt chẽ với chiến lược kinh doanh cũng như chưa làm nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững của doanh nghiệp. Chính vì vậy, có những lý do để tin rằng, trong trường hợp khó khăn tài chính, các nhà quản lý sẽ có động lực để thực hiện các chiến lược “Điều chỉnh lợi nhuận/Quản trị thu nhập (Earnings management - EM)” nhằm che giấu đi hiệu quả hoạt động thực của công ty mình (Franz & cộng sự, 2014). Tuy nhiên, các công ty niêm yết và chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán có thể có những phản ứng khác nhau về chiến lược quản trị thu nhập, do sự khác biệt về số lượng và thành phần các bên có liên quan (Ball & Shivakumar, 2005). Hope & cộng sự (2013) phát triển hai giả thuyết cạnh tranh liên quan đến sự khác biệt trong hành vi quản trị thu nhập của các công ty niêm yết và chưa niêm yết: Giả thuyết đầu tiên được gọi là giả thuyết “nhu cầu”, giả định rằng các công ty niêm yết tham gia vào các hoạt động quản trị thu nhập ít hơn các công ty chưa niêm yết vì họ cần cung cấp cho nhiều bên liên quan thông tin tài chính đáng tin cậy. Giả thuyết thứ hai, được gọi là giả thuyết “hành vi cơ hội” cho rằng các công ty niêm yết có động cơ cao hơn các công ty chưa niêm yết trong thao túng thu nhập do áp lực của thị trường và các bên liên quan để đáp ứng kỳ vọng thu nhập của họ (Beatty & cộng sự, 2002; Givoly & cộng sự, 2010; Hope & cộng sự, 2013). Dựa trên những tiền đề này, sẽ rất thú vị khi xem xét liệu có giả thuyết nào trong hai giả thuyết cạnh tranh này chiếm ưu thế trong các tình huống doanh nghiệp đang gặp vấn đề về tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam hay không. Chủ đề này đã và đang được nghiên cứu rộng rãi hiện nay, thu hút được sự quan tâm chú ý trong nghiên cứ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quản trị thu nhập trong tình trạng kiệt quệ tài chính: Sự khác biệt giữa các công ty niêm yết và chưa niêm yết tại Việt Nam QUẢN TRỊ THU NHẬP TRONG TÌNH TRẠNG KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH: SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT VÀ CHƯA NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM Hồ Thuỷ Tiên Trường Đại học Tài chính - Marketing Email: tienht@ufm.edu.vn Hồ Thu Hoài Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh Email: hoaiht@ueh.edu.vn Mã bài báo: JED-797 Ngày nhận: 19/07/2022 Ngày nhận bản sửa: 17/08/2022 Ngày duyệt đăng: 06/12/2022 Tóm tắt: Nghiên cứu này tập trung vào kiểm định và so sánh lựa chọn quản trị thu nhập ở các công ty niêm yết và chưa niêm yết khi đối mặt với kiệt quệ tài chính dựa trên mẫu 538 công ty phi tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2013-2019. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong bối cảnh kiệt quệ tài chính, cả công ty niêm yết và chưa niêm yết đều thực hiện quản trị thu nhập thông qua việc điều chỉnh hoạt động kinh doanh thực tế. Các phát hiện liên tục cho thấy các công ty niêm yết thực hiện các hành vi quản trị thu nhập nhiều hơn so với các công ty chưa niêm yết, đặc biệt đối với các công ty có mức độ đòn bẩy tài chính cao. Kết quả còn chỉ ra rằng cơ sở để các công ty lựa chọn chiến lược quản trị thu nhập là dựa vào xác suất chiến lược này bị phát hiện nhiều hay ít, thay vì xem xét đến chi phí của các công cụ quản trị thu nhập đó. Từ khóa: Giả thuyết “nhu cầu”, quản trị thu nhập, kiệt quệ tài chính, các công ty niêm yết và các công ty chưa niêm yết, giả thuyết “ hành vi cơ hội”. JEL Code: G23, G32. Earnings management in financial distress: A comparison between listed and unlisted firms in Vietnam Abstract: This study analyses and compares the earnings management behaviors of listed and unlisted firms in financial distress, based on a sample of 538 non-financial firms on Vietnam’s stock market during the 2013-2019 period. We document that both listed and unlisted firms manage their earnings by altering the real business activities rather than using accounting techniques based on discretionary accruals. In addition, listed firms are more likely to manage their earnings than unlisted firms. Our findings support the “opportunistic behavior” hypothesis in explaining the earnings management behaviors of listed entities in the context where firms rely heavily on debt, and the regulations cannot offer strong protection to creditors. Finally, firms consider the probability of being detected rather than the strategy costs when choosing earnings management tools. Keywords: “Demand” hypothesis, earnings management, financial distress, listed and unlisted firms, “Opportunistic behavior” hypothesis. JEL Codes: G23, G32. Số 309 tháng 3/2023 13 1. Giới thiệu Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng kiến số lượng các doanh nghiệp có nguy cơ bị hủy niêm yết gia tăng đáng kể mà nguyên nhân chủ yếu đến từ yếu kém trong kết quả hoạt động lỗ liên tục trong 3 năm. Ngoài ra, trong suốt thời gian tồn tại, các công ty cũng có thể bị suy giảm trong hiệu quả tài chính của mình bởi một số lý do khác như khủng hoảng kinh tế, gia tăng cạnh tranh, chiến lược kinh doanh yếu kém,… và gần đây nhất là do tác động của đại dịch Covid-19. Để ứng phó với khó khăn, các doanh nghiệp không còn cách nào là phải cắt giảm các khoản chi phí. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay cho thấy phần lớn các chương trình cắt giảm chi phí chỉ có thể “giải quyết tình thế” trong thời kỳ khó khăn do chi phí đầu vào tăng chứ chưa gắn kết chặt chẽ với chiến lược kinh doanh cũng như chưa làm nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững của doanh nghiệp. Chính vì vậy, có những lý do để tin rằng, trong trường hợp khó khăn tài chính, các nhà quản lý sẽ có động lực để thực hiện các chiến lược “Điều chỉnh lợi nhuận/Quản trị thu nhập (Earnings management - EM)” nhằm che giấu đi hiệu quả hoạt động thực của công ty mình (Franz & cộng sự, 2014). Tuy nhiên, các công ty niêm yết và chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán có thể có những phản ứng khác nhau về chiến lược quản trị thu nhập, do sự khác biệt về số lượng và thành phần các bên có liên quan (Ball & Shivakumar, 2005). Hope & cộng sự (2013) phát triển hai giả thuyết cạnh tranh liên quan đến sự khác biệt trong hành vi quản trị thu nhập của các công ty niêm yết và chưa niêm yết: Giả thuyết đầu tiên được gọi là giả thuyết “nhu cầu”, giả định rằng các công ty niêm yết tham gia vào các hoạt động quản trị thu nhập ít hơn các công ty chưa niêm yết vì họ cần cung cấp cho nhiều bên liên quan thông tin tài chính đáng tin cậy. Giả thuyết thứ hai, được gọi là giả thuyết “hành vi cơ hội” cho rằng các công ty niêm yết có động cơ cao hơn các công ty chưa niêm yết trong thao túng thu nhập do áp lực của thị trường và các bên liên quan để đáp ứng kỳ vọng thu nhập của họ (Beatty & cộng sự, 2002; Givoly & cộng sự, 2010; Hope & cộng sự, 2013). Dựa trên những tiền đề này, sẽ rất thú vị khi xem xét liệu có giả thuyết nào trong hai giả thuyết cạnh tranh này chiếm ưu thế trong các tình huống doanh nghiệp đang gặp vấn đề về tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam hay không. Chủ đề này đã và đang được nghiên cứu rộng rãi hiện nay, thu hút được sự quan tâm chú ý trong nghiên cứ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Quản trị thu nhập Kiệt quệ tài chính Thị trường chứng khoán Quản trị lợi nhuận Quản trị tài chính doanh nghiệpTài liệu có liên quan:
-
Giáo trình Thị trường chứng khoán: Phần 1 - PGS.TS. Bùi Kim Yến, TS. Thân Thị Thu Thủy
281 trang 1028 34 0 -
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định đầu tư chứng khoán của sinh viên tại Tp. Hồ Chí Minh
7 trang 590 12 0 -
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp: Phần 1 - TS. Bùi Văn Vần, TS. Vũ Văn Ninh (Đồng chủ biên)
262 trang 528 18 0 -
2 trang 528 13 0
-
Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp: Phần 2 - TS. Nguyễn Thu Thủy
186 trang 442 12 0 -
Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp: Phần 1 - TS. Nguyễn Thu Thủy
206 trang 389 10 0 -
Các yếu tố tác động tới quyết định đầu tư chứng khoán của giới trẻ Việt Nam
7 trang 342 0 0 -
293 trang 338 0 0
-
3 trang 333 0 0
-
Làm giá chứng khoán qua những con sóng nhân tạo
3 trang 323 0 0