Quỹ đầu tư đã ra đời như thế nào
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 113.27 KB
Lượt xem: 35
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Các Quỹ đầu tư ra đời theo hai xu hướng chính. Xu hướng thứ nhất là để đáp ứng nhu cầu đầu tư của các cá nhân ở các nước phát triển. Xu hướng thứ hai là ở nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của đất nước trong việc phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Nước Anh Thế kỷ 19, cuộc Cách mạng công nghiệp đã tạo ra một lượng tiền khổng lồ sẵn sàng để đầu tư. Cung tiền quá cao làm cho lãi suất trên thị trường giảm xuống. Trong khi đó các nước...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quỹ đầu tư đã ra đời như thế nào Quỹ đầu tư đã ra đời như thế nào Các Quỹ đầu tư ra đời theo hai xu hướng chính. Xu hướng thứ nhất là để đáp ứng nhu cầu đầu tư của các cá nhân ở các nước phát triển. Xu hướng thứ hai là ở nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của đất nước trong việc phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Nước Anh Thế kỷ 19, cuộc Cách mạng công nghiệp đã tạo ra một lượng tiền khổng lồ sẵn sàng để đầu tư. Cung tiền quá cao làm cho lãi suất trên thị trường giảm xuống. Trong khi đó các nước trên lục địa châu Âu, Nam và Bắc Mỹ lại đang thiếu tiền trầm trọng: tiền để tiến hành Cách mạng công nghiệp. Để thu hút những khối lượng tiền lớn, các nước này đã phát hành các trái phiếu với lãi suất tương đối cao, hấp dẫn so với tỷ lệ lãi suất thấp ở Anh làm cho các nhà đầu tư lớn nhỏ ở Anh bắt đầu dần dần quan tâm tới các cơ hội kinh doanh hải ngoại. Mặc dù hứa hẹn thu được lợi nhuận cao nhưng các nhà đầu tư lại gặp phải những khó khăn đáng kể trong việc nghiên cứu và thực hiện đầu tư hải ngoại. Cuối cùng, việc huy động vốn và quản lý vốn đã được trao vào tay các chuyên gia đầu tư nhằm giảm tối đa rủi ro và tăng tối đa hiệu quả kinh tế. Quỹ đầu tư đầu tiên được thành lập ở London, Anh vào năm 1868 với cái tên Quỹ tín thác chính phủ nước ngoài và chính phủ thuộc địa (The Foreign and Colonial Government Trust). Quỹ này đưa ra lời hứa hẹn rằng các nhà đầu tư với số vốn khiêm tốn vẫn có thuận lợi như các nhà tư bản lớn bằng cách dàn trải đầu tư qua một số các chứng khoán khác nhau. Cho đến năm 1873, hơn 10 Quỹ đầu tư như vậy đã được thành lập dưới hình thức công ty đầu tư. Hầu hết các công ty đầu tư lúc bất giờ ở Anh và ở Mỹ đều giống hình thức các Quỹ đầu tư dạng đóng ngày nay. Họ bán một số lượng cố định các chứng chỉ Quỹ đầu tư với giá được xác định bởi cung và cầu. Tuy nhiên, cho đến những năm 1920, hầu hết những người Mỹ có thu nhập trung bình gửi tiền của họ vào các ngân hàng hoặc mua các cổ phiếu của một công ty nào đó. Việc đầu tư vào thị trường vốn vẫn giới hạn rất nhiều vào những nhà đầu tư giàu nhất. Từ những năm 1920 trở đi, sự phát triển của Quỹ đầu tư được thể hiện rõ nét nhất tại Mỹ. Quỹ tín thác các nhà đầu tư Massachusetts (The Massachusetts Investors Trust) được thành lập năm 1924 với một danh mục đầu tư khiêm tốn gồm 45 loại cổ phiếu và 50.000 USD giá trị tài sản. Đây là Quỹ đầu tư dạng mở đầu tiên, mở màn cho cuộc cách mạng đối với các công ty đầu tư và bản thân hoạt động đầu tư: chào bán liên tục các chứng chỉ Quỹ đầu tư mới và các chứng chỉ này có thể được mua lại bất kỳ lúc nào dựa trên giá trị hiện thời của tài sản Quỹ. Năm 1929, thị trường chứng khoán sụp đổ cùng với cuộc Đại khủng hoảng đã làm quốc hội Mỹ phải ban hành các đạo luật chung để bảo vệ các nhà đầu tư và chỉnh đốn thị trường chứng khoán và thị trường tài chính, trong đó bao gồm cả ngành Quỹ đầu tư. Hệ thống luật về chứng khoán của Mỹ từ đây luôn là cơ sở cho việc soạn thảo luật chứng khoán của các nước khác. Đầu tiên là Luật chứng khoán năm 1933, lần đầu tiên đưa ra yêu cầu về bản cáo bạch mô tả Quỹ. Luật thị trường chứng khoán năm 1934 buộc các Quỹ phải tuân theo các quy định của Uỷ ban chứng khoán Mỹ SEC (Securities Exchange Committee) và đặt họ dưới sự quản lý của Hiệp hội quốc gia các nhà kinh doanh chứng khoán. Luật quan trọng nhất liên quan đến các Quỹ đầu tư và việc bảo vệ người đầu tư của Mỹ được ban hành năm 1940: Luật công ty đầu tư và Luật tư vấn đầu tư. Luật công ty đầu tư 1940 có tác dụng rất đáng kể, điều khoản trung tâm của đạo luật đòi hỏi tất cả các Quỹ định giá tài sản của mình theo giá thị trường hàng ngày; các điều khoản nghiêm cấm đối với các giao dịch giữa Quỹ và người quản lý Quỹ; các hạn chế sử dụng đòn bảy tài chính và một hệ thống chỉ dẫn pháp luật riêng – duy nhất đối với ngành Quỹ đầu tư. Đạo luật 1940 đưa ra các quy định không chỉ cho bản thân các Quỹ đầu tư mà còn cho các nhà bảo lãnh phát hành chính, người điều hành, các quan chức và nhân viên của Quỹ. Luật quy định rõ các Quỹ đầu tư dạng mở mua lại cổ phần của mình bất kỳ lúc nào cổ đông yêu cầu và đòi hỏi các Quỹ thanh toán giá mua lại theo lần tính toán giá trị tài sản thuần (NAV) của danh mục đầu tư của Quỹ trong vòng 7 ngày sau khi nhận được yêu cầu mua lại. Luật tư vấn đầu tư đòi hỏi sự đăng ký của tất cả các nhà tư vấn đối với các Quỹ đầu tư trừ các ngân hàng. Luật cũng đưa ra một nghĩa vụ uỷ thác chung cho các nhà tư vấn đầu tư và có một số điều khoản chống gian lận. Đạo luật đòi hỏi thêm các nhà tư vấn lưu trữ các dữ liệu, báo cáo, công khai và các yêu cầu khác. Không có gì đáng ngạc nhiên khi một cựu chủ tịch của SEC phát biểu: “Không có một tổ chức phát hành nào lại bị nhiều quy định điều chỉnh chi tiết như các Quỹ đầu tư”. Các Quỹ đầu tư dạng mở bắt đầu phát triển trong công chúng từ những năm 1940 và 1950. Năm 1940, có chưa đến 80 Quỹ với tổng tài sản 500 triệu USD. 20 năm sau, đã có 160 Quỹ với tổng tài sản là 17 tỷ USD. Quỹ cổ phiếu quốc tế dạng mở đầu tiên ra đời năm 1940. Ngày nay đã có vô số các Quỹ đầu tư cổ phiếu và trái phiếu toàn cầu. Sự phức tạp và quy mô của ngành Quỹ đầu tư đã thay đổi rất lớn với việc thêm vào các sản phẩm và dịch vụ mới. Chẳng hạn trước những năm 1970, hầu hết các Quỹ là Quỹ đầu tư cổ phiếu và một số Quỹ đầu tư cân đối có bao gồm cả trái phiếu trong danh mục đầu tư. Năm 1972 đã có 46 Quỹ đầu tư trái phiếu và Quỹ đầu tư lợi tức. 20 năm sau nữa, con số đã là 1.629. Sự đổi mới trong đầu tư và các phương tiện hưu trí cũng đã tác động tới ngành. Năm 1971, các Quỹ đầu tư thị trường tiền tệ đầu tiên ra đời. Năm 1976, các Quỹ đầu tư trái phiếu đô thị được miễn thuế bắt đầu chào bán chứng chỉ và 3 năm sau, Quỹ đầu tư thị trường tiền tệ được miễn thuế ra đời. Nó kết hợp ưu thế của các Quỹ đầu tư thị trường tiền tệ với các Quỹ đầu tư trái phiếu đô thị. Từ đó, Ngành Quỹ đầu tư bắt đầu đưa ra các qũy đầu tư cổ phiếu, trái phiếu và thị trường tiền tệ đa dạng hơn. Quỹ đầu tư ngày nay gồm toàn bộ từ các Quỹ đầ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quỹ đầu tư đã ra đời như thế nào Quỹ đầu tư đã ra đời như thế nào Các Quỹ đầu tư ra đời theo hai xu hướng chính. Xu hướng thứ nhất là để đáp ứng nhu cầu đầu tư của các cá nhân ở các nước phát triển. Xu hướng thứ hai là ở nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của đất nước trong việc phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Nước Anh Thế kỷ 19, cuộc Cách mạng công nghiệp đã tạo ra một lượng tiền khổng lồ sẵn sàng để đầu tư. Cung tiền quá cao làm cho lãi suất trên thị trường giảm xuống. Trong khi đó các nước trên lục địa châu Âu, Nam và Bắc Mỹ lại đang thiếu tiền trầm trọng: tiền để tiến hành Cách mạng công nghiệp. Để thu hút những khối lượng tiền lớn, các nước này đã phát hành các trái phiếu với lãi suất tương đối cao, hấp dẫn so với tỷ lệ lãi suất thấp ở Anh làm cho các nhà đầu tư lớn nhỏ ở Anh bắt đầu dần dần quan tâm tới các cơ hội kinh doanh hải ngoại. Mặc dù hứa hẹn thu được lợi nhuận cao nhưng các nhà đầu tư lại gặp phải những khó khăn đáng kể trong việc nghiên cứu và thực hiện đầu tư hải ngoại. Cuối cùng, việc huy động vốn và quản lý vốn đã được trao vào tay các chuyên gia đầu tư nhằm giảm tối đa rủi ro và tăng tối đa hiệu quả kinh tế. Quỹ đầu tư đầu tiên được thành lập ở London, Anh vào năm 1868 với cái tên Quỹ tín thác chính phủ nước ngoài và chính phủ thuộc địa (The Foreign and Colonial Government Trust). Quỹ này đưa ra lời hứa hẹn rằng các nhà đầu tư với số vốn khiêm tốn vẫn có thuận lợi như các nhà tư bản lớn bằng cách dàn trải đầu tư qua một số các chứng khoán khác nhau. Cho đến năm 1873, hơn 10 Quỹ đầu tư như vậy đã được thành lập dưới hình thức công ty đầu tư. Hầu hết các công ty đầu tư lúc bất giờ ở Anh và ở Mỹ đều giống hình thức các Quỹ đầu tư dạng đóng ngày nay. Họ bán một số lượng cố định các chứng chỉ Quỹ đầu tư với giá được xác định bởi cung và cầu. Tuy nhiên, cho đến những năm 1920, hầu hết những người Mỹ có thu nhập trung bình gửi tiền của họ vào các ngân hàng hoặc mua các cổ phiếu của một công ty nào đó. Việc đầu tư vào thị trường vốn vẫn giới hạn rất nhiều vào những nhà đầu tư giàu nhất. Từ những năm 1920 trở đi, sự phát triển của Quỹ đầu tư được thể hiện rõ nét nhất tại Mỹ. Quỹ tín thác các nhà đầu tư Massachusetts (The Massachusetts Investors Trust) được thành lập năm 1924 với một danh mục đầu tư khiêm tốn gồm 45 loại cổ phiếu và 50.000 USD giá trị tài sản. Đây là Quỹ đầu tư dạng mở đầu tiên, mở màn cho cuộc cách mạng đối với các công ty đầu tư và bản thân hoạt động đầu tư: chào bán liên tục các chứng chỉ Quỹ đầu tư mới và các chứng chỉ này có thể được mua lại bất kỳ lúc nào dựa trên giá trị hiện thời của tài sản Quỹ. Năm 1929, thị trường chứng khoán sụp đổ cùng với cuộc Đại khủng hoảng đã làm quốc hội Mỹ phải ban hành các đạo luật chung để bảo vệ các nhà đầu tư và chỉnh đốn thị trường chứng khoán và thị trường tài chính, trong đó bao gồm cả ngành Quỹ đầu tư. Hệ thống luật về chứng khoán của Mỹ từ đây luôn là cơ sở cho việc soạn thảo luật chứng khoán của các nước khác. Đầu tiên là Luật chứng khoán năm 1933, lần đầu tiên đưa ra yêu cầu về bản cáo bạch mô tả Quỹ. Luật thị trường chứng khoán năm 1934 buộc các Quỹ phải tuân theo các quy định của Uỷ ban chứng khoán Mỹ SEC (Securities Exchange Committee) và đặt họ dưới sự quản lý của Hiệp hội quốc gia các nhà kinh doanh chứng khoán. Luật quan trọng nhất liên quan đến các Quỹ đầu tư và việc bảo vệ người đầu tư của Mỹ được ban hành năm 1940: Luật công ty đầu tư và Luật tư vấn đầu tư. Luật công ty đầu tư 1940 có tác dụng rất đáng kể, điều khoản trung tâm của đạo luật đòi hỏi tất cả các Quỹ định giá tài sản của mình theo giá thị trường hàng ngày; các điều khoản nghiêm cấm đối với các giao dịch giữa Quỹ và người quản lý Quỹ; các hạn chế sử dụng đòn bảy tài chính và một hệ thống chỉ dẫn pháp luật riêng – duy nhất đối với ngành Quỹ đầu tư. Đạo luật 1940 đưa ra các quy định không chỉ cho bản thân các Quỹ đầu tư mà còn cho các nhà bảo lãnh phát hành chính, người điều hành, các quan chức và nhân viên của Quỹ. Luật quy định rõ các Quỹ đầu tư dạng mở mua lại cổ phần của mình bất kỳ lúc nào cổ đông yêu cầu và đòi hỏi các Quỹ thanh toán giá mua lại theo lần tính toán giá trị tài sản thuần (NAV) của danh mục đầu tư của Quỹ trong vòng 7 ngày sau khi nhận được yêu cầu mua lại. Luật tư vấn đầu tư đòi hỏi sự đăng ký của tất cả các nhà tư vấn đối với các Quỹ đầu tư trừ các ngân hàng. Luật cũng đưa ra một nghĩa vụ uỷ thác chung cho các nhà tư vấn đầu tư và có một số điều khoản chống gian lận. Đạo luật đòi hỏi thêm các nhà tư vấn lưu trữ các dữ liệu, báo cáo, công khai và các yêu cầu khác. Không có gì đáng ngạc nhiên khi một cựu chủ tịch của SEC phát biểu: “Không có một tổ chức phát hành nào lại bị nhiều quy định điều chỉnh chi tiết như các Quỹ đầu tư”. Các Quỹ đầu tư dạng mở bắt đầu phát triển trong công chúng từ những năm 1940 và 1950. Năm 1940, có chưa đến 80 Quỹ với tổng tài sản 500 triệu USD. 20 năm sau, đã có 160 Quỹ với tổng tài sản là 17 tỷ USD. Quỹ cổ phiếu quốc tế dạng mở đầu tiên ra đời năm 1940. Ngày nay đã có vô số các Quỹ đầu tư cổ phiếu và trái phiếu toàn cầu. Sự phức tạp và quy mô của ngành Quỹ đầu tư đã thay đổi rất lớn với việc thêm vào các sản phẩm và dịch vụ mới. Chẳng hạn trước những năm 1970, hầu hết các Quỹ là Quỹ đầu tư cổ phiếu và một số Quỹ đầu tư cân đối có bao gồm cả trái phiếu trong danh mục đầu tư. Năm 1972 đã có 46 Quỹ đầu tư trái phiếu và Quỹ đầu tư lợi tức. 20 năm sau nữa, con số đã là 1.629. Sự đổi mới trong đầu tư và các phương tiện hưu trí cũng đã tác động tới ngành. Năm 1971, các Quỹ đầu tư thị trường tiền tệ đầu tiên ra đời. Năm 1976, các Quỹ đầu tư trái phiếu đô thị được miễn thuế bắt đầu chào bán chứng chỉ và 3 năm sau, Quỹ đầu tư thị trường tiền tệ được miễn thuế ra đời. Nó kết hợp ưu thế của các Quỹ đầu tư thị trường tiền tệ với các Quỹ đầu tư trái phiếu đô thị. Từ đó, Ngành Quỹ đầu tư bắt đầu đưa ra các qũy đầu tư cổ phiếu, trái phiếu và thị trường tiền tệ đa dạng hơn. Quỹ đầu tư ngày nay gồm toàn bộ từ các Quỹ đầ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Quỹ đầu tư kinh nghiệm tài chính báo cáo tài chính chi phí doanh nghiệp quản trị tài chínhTài liệu có liên quan:
-
18 trang 465 0 0
-
Phương pháp phân tích báo cáo tài chính: Phần 1 - PGS.TS. Nguyễn Ngọc Quang
175 trang 399 1 0 -
Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp: Phần 1 - TS. Nguyễn Thu Thủy
206 trang 388 10 0 -
Các bước trong phương pháp phân tích báo cáo tài chính đúng chuẩn
5 trang 330 0 0 -
Giáo trình Phân tích báo cáo tài chính (Tái bản lần thứ ba): Phần 2
194 trang 326 1 0 -
Giáo trình Phân tích báo cáo tài chính: Phần 2 (Tái bản lần thứ nhất)
388 trang 305 1 0 -
Kế toán cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp
52 trang 296 0 0 -
26 trang 244 0 0
-
88 trang 238 1 0
-
9 trang 232 0 0