Danh mục tài liệu

Quy định về việc ban hành văn bản qua các Hiến pháp nước ta

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 183.31 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ban hành văn bản là hoạt động đặc biệt quan trọng của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Vì thế, có nhiều quy định liên quan tới việc ban hành... 1. Chương trình ban hành văn bản pháp luật Trong Hiến pháp năm 1946 mới chỉ có quy định về dự án ngân sách hàng năm (Điều 52); Hiến pháp năm 1959 có quy định thêm về “kế hoạch kinh tế nhà nước” (Điều 50) mà chưa có quy định về việc lập và phê chuẩn chương trình xây dựng pháp luật. Điều đó phù hợp...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quy định về việc ban hành văn bản qua các Hiến pháp nước ta Quy định về việc ban hành văn bản qua các Hiến pháp nước taBan hành văn bản là hoạt động đặc biệt quan trọng của các cơ quan trong bộ máynhà nước. Vì thế, có nhiều quy định liên quan tới việc ban hành... 1. Chương trình ban hành văn bản pháp luật Trong Hiến pháp năm 1946 mới chỉ có quy định về dự án ngân sách h àng năm(Điều 52); Hiến pháp năm 1959 có quy định thêm về “kế hoạch kinh tế nhà nước”(Điều 50) mà chưa có quy định về việc lập và phê chuẩn chương trình xây dựngpháp luật. Điều đó phù hợp với tình hình đất nước đang có chiến tranh nên Nhànước chưa thể quan tâm tới công tác xây dựng pháp luật. B ước sang thời bình,ngoài lĩnh vực quản lý kinh tế, Nhà nước còn quan tâm tới nhiều lĩnh vực hoạtđộng khác, vì vậy trong Hiến pháp năm 1980, vấn đề kế hoạch được mở rộngphạm vi thành “kế hoạch nhà nước” (Điều 83), trong đó có kế hoạch (chươngtrình) xây dựng pháp luật. Phát triển thêm một bước, thể hiện quan điểm của Đảngtrong việc xây dựng nhà nước pháp quyền, ở Hiến pháp năm 1992 “ch ương trìnhxây dựng luật, pháp lệnh” được quy định riêng, tách ra khỏi “kế hoạch phát triểnkinh tế - xã hội” (Điều 84). 2. Các hình thức văn bản pháp luật được quy định trong hiến pháp Các quy định về hình thức văn bản pháp luật qua bốn bản hiến pháp đã cónhững thay đổi nhất định và đã có sự phát triển đáng kể. Sự phát triển đó, trước hết thể hiện trong kỹ thuật soạn thảo, từ hướng quy địnhgián tiếp về thẩm quyền hình thức của một số chủ thể và đặt các quy định đó lẫnlộn với quy định về những vấn đề khác trong cùng một điều (Điều 36, 37 Hiếnpháp năm 1946; Điều 53, 63, 64 Hiến pháp năm 1959…) đã phát triển theo hướngquy định trực tiếp thẩm quyền hình thức của chủ thể và tách riêng quy định vềthẩm quyền hình thức của chủ thể thành một điều độc lập (Điều 115, 116 H iếnpháp năm 1992…). Đồng thời, sự phát triển đó cũng thể hiện trong việc thay đổi quy định về thểloại văn bản của một số chủ thể cho phù hợp với chức năng của các chủ thể. Xinđơn cử về các thể loại văn bản của Chính phủ: Theo Hiến pháp năm 1946, Chính phủ có sắc lệnh, đến Hiến pháp năm 1959,Hội đồng Chính phủ có Nghị quyết, Nghị định, Chỉ thị (Điều 73) n ên Chính phủcó vai trò độc lập, chủ động hơn trong việc điều hành. Theo Hiến pháp năm 1980,Hội đồng Bộ trưởng có Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư(Điều 109), do đó cũng tạo ra sự chủ động cho Chính phủ trong việc điều h ành,nhưng việc quy định quá nhiều thể loại là không cần thiết. Đến Hiến pháp năm1992 thì Chính phủ có Nghị quyết, Nghị định, Thủ tướng có Quyết định, Chỉ thị(Điều 115), do đó đã bảo đảm sự chủ động Chính phủ và của Thủ tướng trong việcđiều hành. 3. Thủ tục ban hành văn bản pháp luật 3.1. Thẩm quyền trình dự án văn bản pháp luật Thẩm quyền của Chính phủ trong việc trình dự án văn bản pháp luật ra trướcQuốc hội (Nghị viện) và Uỷ ban thường vụ Quốc hội (Ban thường vụ, Hội đồngNhà nước) là quy định xuyên suốt bốn bản Hiến pháp (các Điều 52 Hiến pháp năm1946, Điều 74 Hiến pháp năm 1959, Điều 107 Hiến pháp năm 1980 và Điều 112Hiến pháp năm 1992). Ngoài Chính phủ, trong Hiến pháp năm 1980, thẩm quyền trình dự án luật ratrước Quốc hội còn thuộc về Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Quốc hội, Hội đồngQuốc phòng, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội,Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổquốc, các chính đảng, Tổng Công đoàn, tổ chức liên hiệp nông dân tập thể, ĐoànThanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ (Điều 86). Quy định nàymột mặt đã tạo ra cơ chế phát huy dân chủ rộng rãi và hữu hiệu hơn so với cácHiến pháp trước đó, mặt khác đã góp phần tích cực trong việc nâng cao năng lựccủa Quốc hội trong việc hoàn thiện hệ thống các đạo luật. Đến Hiến pháp năm 1992, thẩm quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội về cơbản vẫn được quy định như Hiến pháp năm 1980 nhưng có bớt hai chủ thể là Chủtịch Quốc hội và các đại biểu Quốc hội để ph ù hợp với tình hình thực tiễn nước ta.Đồng thời do có sự chuyển biến của tình hình, vào thời điểm đó ngoài Đảng Cộngsản ra không còn một đảng phái chính trị nào khác nên thẩm quyền trình dự ánluật, ngoài Chính phủ còn thuộc về Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội,Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởngViện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của Mặt trận(Điều 87). 3.2. Thủ tục thông qua dự án văn bản pháp luật Về thủ tục thông qua văn bản pháp luật của Nghị viện, Hiến pháp năm 1946quy định tại Điều 29: “Phải có quá nửa tổng số nghị viên tới họp, hội nghị mớiđược biểu quyết. Nghị viện quyết nghị theo quá nửa số nghị viên có mặt. Nhưngmuốn tuyên chiến thì phải có hai phần ba số nghị viên có mặt bỏ phiếu thuận”.Còn đối với Ban thường vụ thì: “Phải có quá nửa số nhân viên bỏ phiếu thuận,những nghị quyết… mới có giá trị” (Điều 37). Trong các Hiến pháp sau đó, thống nhất hướng quy định là các văn bản phápluật của Quốc hội chỉ được thông qua khi có quá nửa (trong một số trường hợp cụthể được quy định thì phải có ít nhất là hai phần ba) số đại biểu của Quốc hội (màkhông phải là đại biểu có mặt tại phiên họp) đồng ý. Các quy định về thủ tục thông qua văn bản của Uỷ ban thường vụ Quốc hội(Điều 54 Hiến pháp năm 1959, Điều 93 Hiến pháp năm 1992) và thủ tục thông quavăn bản của Hội đồng Nhà nước (Điều 102 Hiến pháp năm 1980) t ương tự nhau làvăn bản chỉ được thông qua khi có quá nửa số thành viên đồng ý. Riêng các quy định về thủ tục thông qua văn bản của Chính phủ và các cơ quanchính quyền địa phương thì trong các Hiến pháp có một số điểm khác biệt, cụ thể: - Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 không có quy định; - Hiến pháp năm 1980 quy định ở các Điều 109 (về Chính phủ), Điều 117 (vềHội đồng nhân dân), còn về Uỷ ban nhân dân không có quy định; - Hiến pháp năm 1992 quy định ở các Điều 115 (về ...

Tài liệu có liên quan: