Danh mục tài liệu

Sử dụng GMM nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến chênh lệch giữa lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế của các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 719.74 KB      Lượt xem: 53      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết Sử dụng GMM nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến chênh lệch giữa lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế của các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam tập trung sử dụng ước lượng GMM để đánh giá mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến chênh lệch giữa LNKT và TNCT bằng cách xem xét và loại trừ ảnh hưởng của các biến nội sinh trong mô hình hồi quy dữ liệu bảng nhằm đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến mối liên hệ giữa kế toán và thuế ở các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sử dụng GMM nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến chênh lệch giữa lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế của các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 10(01) - 2022 SỬ DỤNG GMM NGHIÊN CỨU NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHÊNH LỆCH GIỮA LỢI NHUẬN KẾ TOÁN VÀ THU NHẬP CHỊU THUẾ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM USING GMM ESTIMATION TO STUDY THE FACTORS AFFECTING THE DIFFERENCE BETWEEN ACCOUNTING PROFIT AND TAXABLE INCOME OF VIETNAMESE LISTED COMPANIES Ngày nhận bài: 22/06/2021 Ngày chấp nhận đăng: 07/12/2021 Trương Thùy Vân TÓM TẮT Chênh lệch giữa lợi nhuận kế toán (LNKT) và thu nhập chịu thuế (TNCT) (Book-Tax Differences - BTD) là chỉ tiêu quan trọng được rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới khai thác nhằm đánh giá và làm rõ ảnh hưởng của thuế và kế toán tài chính trong mối quan hệ giữa kế toán và thuế trên thực tiễn. Bài viết sử dụng ước lượng GMM để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến chênh lệch giữa LNKT và TNCT trong mô hình dữ liệu bảng của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, sau khi đã loại trừ ảnh hưởng của các biến nội sinh trong mô hình, thì chi phí thuế và quy mô có ảnh hưởng nghịch chiều, trong khi đó tỷ suất sinh lời của tài sản lại có ảnh hưởng tích cực đến chênh lệch giữa lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế. Thông qua đó có thể thấy được những doanh nghiệp lớn, có kết quả kinh doanh tốt thường không chịu ảnh hưởng nhiều bởi các chính sách thuế của doanh nghiệp và thông tin công bố ít bị ảnh hưởng bởi thuế. Từ khóa: Chênh lệch giữa lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế; GMM; biến nội sinh; lợi nhuận kế toán; thu nhập chịu thuế. ABSTRACT The differences between accounting profit and taxable income (Book-Tax Differences - BTD) is an important indicator exploited by many globe researchers for accessing relationship between accounting and tax, tax aggressiveness or tax advoidance … This article uses generalized method of moments - GMM estimate to evaluate the factors affecting the difference between accounting profit and taxable income in the panel data model of listed companies on Vietnam's stock market. The results show that, after excluding the influence of endogenous variables in the model, tax expenses and firm size have a negative effect, while return on assets has a positive effect to the difference between accounting profit and taxable income. Thereby, it can be seen that large enterprises with large profitability ratios are less affected by tax policies and accounting disclosures less affected by tax. Keywords: Difference between accounting profit and taxable income; GMM; endogenous variables; accounting profit; income taxes. 1. Giới thiệu giữa LNKT và TNCT (BTD) là chỉ tiêu thường xuyên được xuất hiện trong các Vấn đề về sự liên quan giữa hai hệ thống kế toán và thuế ở các quốc gia khác nhau nghiên cứu về vấn đề mối liên hệ, biến này luôn được nhà nghiên cứu trên thế giới quan thậm chí còn được sử dụng như là biến trực tâm. Trên thế giới, xuất phát từ những trường tiếp để đánh giá liên hệ giữa kế toán và thuế phái khác nhau mà vấn đề về mối liên hệ giữa kế toán và thuế có những khác biệt trong phương pháp đánh giá. Chênh lệch Trương Thùy Vân, Trường Đại học Quảng Bình 63 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG cũng như đại diện cho những vấn đề về kết BTD như là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp quả quản lý như hoạt động quản trị lợi nhuận, đến mối liên hệ giữa kế toán và thuế nhưng quản lý thuế, hoạt động tránh thuế, v.v... sẽ tập trung làm rõ những nhân tố ảnh hưởng (Manzon và Plesko, 2001; Mills và cộng sự, đến BTD ở Việt Nam. Ngoài ra, bài viết này 2002; Desai và Dharmapala, 2009; Xian và sử dụng phương pháp đánh giá chi tiết hơn cộng sự, 2015). Chỉ tiêu BTD được sử dụng thông qua việc xem xét ảnh hưởng của các trong các nghiên cứu cho thấy có sự liên hệ nhân tố đến BTD theo mô hình động (xem gần giữa kế toán và thuế trong doanh nghiệp xét loại trừ ảnh hưởng của các biến nội sinh). thì sẽ có sự lấn át của thuế nhiều hơn là Bài viết tập trung sử dụng ước lượng GMM những doanh nghiệp không chịu ảnh hưởng để đánh giá mô hình các nhân tố ảnh hưởng của nhà nước (Desai, 2003; Desai & đến chênh lệch giữa LNKT và TNCT bằng Dharmapala, 2009; Dyreng & cộng sự, 2010; cách xem xét và loại trừ ảnh hưởng của các Armstrong & cộng sự, 2012; Lennox & cộng biến nội sinh trong mô hình hồi quy dữ liệu sự, 2013). bảng nhằm đánh giá các nhân tố ảnh hưởng Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu kể trên đến mối liên hệ giữa kế toán và thuế ở các không tập trung vào phân tích các nhân tố doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng ảnh hưởng đến BTD mà thừa nhận sự ảnh khoán Việt Nam hưởng của BTD để đánh giá xu hướng tránh 2. Cơ sở lý thuyết và thiết kế nghiên cứu thuế hay lập kế hoạch thuế trong doanh nghiệp. Điều này có thể xuất phát từ bề dày 2.1. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu về mối liên hệ ở các quốc gia Trong các nghiên cứu về mối liên hệ giữa phát triển. Đối với Việt Nam, các nghiên cứu kế toán và thuế, các nhà nghiên cứu đã đề về vấn đề mối liên hệ giữa kế toán và thuế xuất những lý thuyết cơ bản chi phối nghiên còn ít, xu hướng kế toán phụ thuộc nhiều vào ...

Tài liệu có liên quan: