Danh mục tài liệu

Thế nào là một bài báo khoa học

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 169.40 KB      Lượt xem: 5      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tham khảo tài liệu thế nào là một bài báo khoa học, y tế - sức khoẻ, y dược phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thế nào là một bài báo khoa học Thế nào là một bài báo khoa họcTrong hoạt động nghiên cứu khoa học, bài báo khoa học đóng một vai trò hết sứcquan trọng. Nó không chỉ là sản phẩm tri thức, mà còn là một loại tiền tệ của giớilàm khoa học, bởi vì qua đó mà người ta có thể đánh giá khả năng chuyên môn vànăng suất khoa học của nhà nghiên cứu. Nhưng ngay cả trong giới khoa bảng vàgiáo sư đại học, có khá nhiều người vẫn chưa biết thế nào là một bài báo khoa họcnghiêm chỉnh và có lẽ vì hiểu sai cho nên một số giáo sư đã trình bày trong lí lịchkhoa học của mình một cách thiếu chính xác. Nói một cách ngắn gọn, bài báokhoa học (tiếng Anh: “scientific paper” hay có khi viết ngắn l à paper) là một bàibáo có nội dung khoa học được công bố trên một tập san khoa học (scientificjournal) đã qua hệ thống bình duyệt (peer-review) của tập san. Ở đây có ba vế củađịnh nghĩa mà bài này sẽ lần lược bàn đến: nội dung bài báo, tập san, và cơ chếbình duyệt.Nội dung bài báo khoa họcGiá trị khoa học của một bài báo tùy thuộc một phần lớn vào nội dung của bài báo.Bởi vì báo cáo khoa hoc xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, giá trị củachúng cũng không nhất thiết đồng nhất. Sau đây là một số bài báo khoa học thôngthường và tôi xếp loại theo thang giá trị (cao nhất đến thấp nhất).Những bài báo mang tính cống hiến nguyên thủy (original contributions), nhằmbáo cáo kết quả một công trình nghiên cứu, hay đề ra một phương pháp mới, một ýtưởng mới, hay một cách diễn dịch mới. Có khi một công trình nghiên cứu có thểcó nhiều phát hiện mới, và cần phải có nhiều bài báo nguyên thủy để truyền đạtnhững phát hiện này. Cống hiến mới cho khoa học không chỉ giới hạn trong pháthiện mới, mà có thể bao gồm cả những phương pháp mới để tiếp cận một vấn đềcũ, hay một cách diễn dịch mới cho một phát hiện xa xưa. Do đó các bài báo khoahọc ở dạng này cũng có thể xem là những cống hiến nguyên thủy. Tất cả các bàibáo này trên nguyên tắc, đều phải thông qua hệ thống bình duyệt trước khi đượccông bố.Những bài báo nghiên cứu ngắn (short communications), đây là những bài báorất ngắn (chỉ khoảng 600 đến 1.000 chữ, tùy theo qui định của tập san) mà nộidung chủ yếu tập trung giải quyết một vấn đề rất hẹp hay báo cáo một phát hiệnnhỏ nhưng quan trọng. Những bài báo này vẫn phải qua hệ thống bình duyệtnghiêm chỉnh, nhưng mức độ rà soát không cao như các bài báo cống hiến nguyênthủy. Cần phải nói thêm ở đây là phần lớn những bài báo công bố trên tập sanNature (một tập san uy tín vào hàng số một trong khoa học) là “Letters”, nhưngthực chất đó là những bài báo nguyên thủy có giá trị khoa học rất cao, chứ khôngphải những lá thư thông thường.Những bài điểm báo (reviews). Có khi các tác giả có uy tín trong chuyên mônđược mời viết điểm báo cho một tập san, thường tập trung vào một chủ đề hẹp nàođó mà tác giả phải đọc tất cả những bài báo liên quan, tóm lược lại, và bàn qua vềnhững điểm chính cũng như đề ra một số đường hướng nghiên cứu cho chuyênngành. Những bài điểm báo thường không qua hệ thống bình duyệt, hay có quabình duyệt nhưng không chặt chẽ như những bài báo khoa học nguyên bản.Những bài xã luận (editorials). Có khi tập san công bố một bài báo nguyên thủyquan trọng với một phát hiện có ý nghĩa lớn, ban biên tập có thể mời một chuyêngia viết bình luận về phát hiện đó.Những thư cho tòa soạn (letters to the editor). Nhiều tập san khoa học dành hẳnmột mục cho bạn đọc phản hồi những bài báo đã đăng trên tập san. Đây là nhữngbài viết rất ngắn (chỉ 300 đến 500 chữ, hay một trang-tùy theo qui định của tậpsan) của bạn đọc phê bình hay chỉ ra một sai lầm nào đó trong bài báo khoa học đãđăng. Những thư bạn đọc thường được gửi cho tác giả bài báo để họ đáp lời haybàn thêm. Và sau cùng là nh ững bài báo trong các kỉ yếu hội nghị. Trong các hộinghị chuyên ngành, các nhà nghiên cứu tham dự hội nghị và muốn trình bày kếtquả nghiên cứu của mình thường gửi bài báo để đăng vào kỉ yếu của hội nghị.Có hai loại bài báo trong nhóm này: Nhóm 1 gồm những bài báo ngắn (proceedings papers) thực chất là những  bản tin khoa học ngắn (chỉ dài từ 250 chữ đến 500 chữ) mà nội dung là tóm tắt một công trình nghiên cứu. Nhóm 2 gồm những bản tóm lược (abstracts), (khoảng 5 đến 10 trang), mà  nội dung chủ yếu là báo cáo sơ bộ những phát hiện hay phương pháp nghiên cứu mới.Cần nhấn mạnh rằng đây không phải là những bài báo khoa học bởi vì chúng chưaxuất hiện trên các tập san khoa học và qua bình duyệt nghiêm chỉnh. Phần lớn, nếukhông muốn nói là 100%, các bài tóm lược đều được chấp nhận cho in trong cáckĩ yếu của hội nghị vì ban tổ chức muốn có nhiều người dự hội nghị (cũng cónghĩa là tăng thu nhập cho ban tổ chức) cho nên họ không muốn từ chối một bàibáo nào.Tập san khoa học và hệ số ảnh hưởngGiá trị khoa học của một bài báo không chỉ tùy thuộc vào nội dung, mà tập sancông bố cũng đóng một vai trò quan trọng. Chẳng hạn như trong y học một bài báotrên các tập san lớn như New England Journal of Medicine (NEJM) hay Lancet cógiá trị hơn hẳn một bài báo trên các tập san y học của Pháp hay Singapore MedicalJournal. Điều này đúng bởi vì những công trình nghiên cứu quan trọng thườngđược công bố trên các tập san lớn và có nhiều người đọc, nhưng quan trọng hơnhết là những tập san này có một hệ thống bình duyệt nghiêm túc.Uy tín và giá trị của một tập san thường được đánh giá qua hệ số ảnh hưởng(Impact Factor hay IF). IF được tính toán dựa vào số lượng bài báo công bố vàtổng số lần những bài báo đó được tham khảo hay trích dẫn (citations). Theo địnhnghĩa hiện hành, IF của một tập san trong năm là số lần tham khảo trung bình cácbài báo được công bố trên tập san trong vòng 2 năm trước. Chẳng hạn như trong 2năm 1981 và 1982, Tập san Lancet công bố 470 bài báo khoa học nguyên thủy;trong năm 1983 có 10.011 bài báo khác trên các tất cả các tập ...