
Thư pháp Trung Hoa
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 206.08 KB
Lượt xem: 30
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Khải thư của Liễu Công Quyền đời Đường) Thư pháp Trung Hoa là phép viết chữ của người Trung Hoa được nâng lên thành một nghệ thuật và có ảnh hưởng sâu sắc đến các nước lân cận như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam (xem bài Thư pháp Á Đông). Theo truyền thuyết, vua Phục Hi nhân việc nghĩ ra bát quái mà sáng tạo "long thư", vua Thần Nông xem lúa mà chế ra "tuệ thư", Hoàng Đế nhìn mây mà đặt ra "vân thư", vua Nghiêu được rùa thần mà làm ra "qui thư", Đại Vũ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thư pháp Trung Hoa Thư pháp Trung HoaKhải thư của Liễu Công Quyền đời Đường)Thư pháp Trung Hoa là phép viết chữ của người Trung Hoa được nâng lên thànhmột nghệ thuật và có ảnh hưởng sâu sắc đến các nước lân cận như Nhật Bản, HànQuốc, Việt Nam (xem bài Thư pháp Á Đông).Theo truyền thuyết, vua Phục Hi nhân việc nghĩ ra bát quái mà sáng tạo long thư,vua Thần Nông xem lúa mà chế ra tuệ thư, Hoàng Đế nhìn mây mà đặt ra vânthư, vua Nghiêu được rùa thần mà làm ra qui thư, Đại Vũ đúc chín đỉnh mà tạora chung đỉnh văn . Thế nhưng đó chỉ là huyền thoại và không còn dấu tích gì đểlạ iHệ văn tự sớm nhất được phát hiện cho đến nay là chữ giáp cốt (giáp cốt văn 甲骨文)[1] mà niên đại được xác định khoảng 1200 tcn. Giáp cốt 甲骨 là nói gọn củaquy giáp 龜甲 (mai rùa và yếm rùa) và thú cốt 獸骨 (xương thú). Chữ này dongười đời nhà Ân (1766 - 1123 TCN) khắc để dùng vào việc bói toán.Kim văn 金文, tức là kiểu chữ được khắc trên đỉnh vạc và các tế khí 祭器 (dụngcụ cúng tế) bằng đồng, là hệ văn tự được tìm thấy với niên đại trước đời Tần. Sauđời Tần, chữ viết được tìm thấy là chữ khắc trên bia đá, nên gọi là bi văn.Khi đã chế ra bút lông, giấy và mực, chữ Hán bắt đầu được viết thành nét to nétnhỏ. Từ đời Hán, chữ Hán đã ổn định về kiểu chữ và loại nét. Cùng một chữnhưng chữ Hán có 5 kiểu viết (gọi là thư thể 書体) chính: Triện thư 篆書 (gồm đạitriện 大篆 và tiểu triện 小篆), lệ thư 隸書, khải thư 楷書, hành thư 行書, và thảothư 草書.Các kiểu viết chữ minh 明: đại triện, tiểu triện, lệ, khải, hành, thảo (thư pháp TriệuMạnh Phủ đời Nguyên) Chữ triện. Khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc, ông đã sai thừa tướng Lý Tư thống nhất văn tự, tức là thống nhất các chữ viết giữa các nước trước đó từ đại triện thành chữ tiểu triện. Chữ lệ là thư thể thông dụng trong công văn, kiểu chữ này rất phổ biến giữa thế kỷ 3 và 2 TCN. Chữ khải (khải thư hay chính thư 正書) là cải biên từ chữ lệ và bắt đầu phổ biến vào thế kỷ III cn. Đây là kiểu chữ chính thức, chuẩn mực, dễ nhận biết, dễ đọc nhất và vẫn là phổ thông nhất trong các kiểu viết chữ Hán hiện nay. Chữ hành (hành thư) là dạng viết nhanh của chữ khải, được dùng trong các giấy tờ thân mật (như thư từ) và đề tranh. Chữ hành bắt đầu phổ biến vào thế kỷ 2. Khi được viết nhanh, chữ khải có thể được giản lược đi một hai nét để tạo thành một thư thể gọi là hành khải (行楷). Cũng tương tự như vậy, chữ hành sẽ biến thành hành thảo (行草). Tác phẩm thư pháp rất nổi tiếng Lan Đình Tập Tự (蘭亭集序) của Vương Hi Chi (王羲之) đời Tấn được viết với chữ hành. Chữ thảo (thảo thư) là thư thể được viết nhanh nhất, bút pháp phóng khoáng. Có chữ Hán khi viết bình thường theo lối chữ khải thì phải viết rất nhiều nét nhưng với thảo thư thì có thể viết bằng một nét. Nhiều chữ có thể viết liên miên nối tiếp nhau chỉ bằng một nét, thí dụ như cuồng thảo (狂草) (chữ thảo viết điên cuồng) của Hoài Tố (懷素, khoảng 730-780)Vào khoảng giữa thế kỷ 2 và 4, nghệ thuật viết chữ được mệnh danh là thư phápđã trở thành một bộ môn nghệ thuật tao nhã cao siêu của tao nhân mặc khách; mộtngười điêu luyện về thư pháp thường được đánh giá là người trí thức có học vấncao. Trong thời này, Vương Hi Chi (303-361), một đại quan và một đại thư gia, đãđược người đời tôn là «Thảo thánh» (草聖).Cuồng thảo của Hoài Tố đời ĐườngCác nhà thư pháp Trung Hoa Vương Hi Chi Nhan Chân Khanh Tô Thức Tống Huy Tông Nhan Chi Suy Mao Trạch Đông Tưởng Giới Thạch
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thư pháp Trung Hoa Thư pháp Trung HoaKhải thư của Liễu Công Quyền đời Đường)Thư pháp Trung Hoa là phép viết chữ của người Trung Hoa được nâng lên thànhmột nghệ thuật và có ảnh hưởng sâu sắc đến các nước lân cận như Nhật Bản, HànQuốc, Việt Nam (xem bài Thư pháp Á Đông).Theo truyền thuyết, vua Phục Hi nhân việc nghĩ ra bát quái mà sáng tạo long thư,vua Thần Nông xem lúa mà chế ra tuệ thư, Hoàng Đế nhìn mây mà đặt ra vânthư, vua Nghiêu được rùa thần mà làm ra qui thư, Đại Vũ đúc chín đỉnh mà tạora chung đỉnh văn . Thế nhưng đó chỉ là huyền thoại và không còn dấu tích gì đểlạ iHệ văn tự sớm nhất được phát hiện cho đến nay là chữ giáp cốt (giáp cốt văn 甲骨文)[1] mà niên đại được xác định khoảng 1200 tcn. Giáp cốt 甲骨 là nói gọn củaquy giáp 龜甲 (mai rùa và yếm rùa) và thú cốt 獸骨 (xương thú). Chữ này dongười đời nhà Ân (1766 - 1123 TCN) khắc để dùng vào việc bói toán.Kim văn 金文, tức là kiểu chữ được khắc trên đỉnh vạc và các tế khí 祭器 (dụngcụ cúng tế) bằng đồng, là hệ văn tự được tìm thấy với niên đại trước đời Tần. Sauđời Tần, chữ viết được tìm thấy là chữ khắc trên bia đá, nên gọi là bi văn.Khi đã chế ra bút lông, giấy và mực, chữ Hán bắt đầu được viết thành nét to nétnhỏ. Từ đời Hán, chữ Hán đã ổn định về kiểu chữ và loại nét. Cùng một chữnhưng chữ Hán có 5 kiểu viết (gọi là thư thể 書体) chính: Triện thư 篆書 (gồm đạitriện 大篆 và tiểu triện 小篆), lệ thư 隸書, khải thư 楷書, hành thư 行書, và thảothư 草書.Các kiểu viết chữ minh 明: đại triện, tiểu triện, lệ, khải, hành, thảo (thư pháp TriệuMạnh Phủ đời Nguyên) Chữ triện. Khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc, ông đã sai thừa tướng Lý Tư thống nhất văn tự, tức là thống nhất các chữ viết giữa các nước trước đó từ đại triện thành chữ tiểu triện. Chữ lệ là thư thể thông dụng trong công văn, kiểu chữ này rất phổ biến giữa thế kỷ 3 và 2 TCN. Chữ khải (khải thư hay chính thư 正書) là cải biên từ chữ lệ và bắt đầu phổ biến vào thế kỷ III cn. Đây là kiểu chữ chính thức, chuẩn mực, dễ nhận biết, dễ đọc nhất và vẫn là phổ thông nhất trong các kiểu viết chữ Hán hiện nay. Chữ hành (hành thư) là dạng viết nhanh của chữ khải, được dùng trong các giấy tờ thân mật (như thư từ) và đề tranh. Chữ hành bắt đầu phổ biến vào thế kỷ 2. Khi được viết nhanh, chữ khải có thể được giản lược đi một hai nét để tạo thành một thư thể gọi là hành khải (行楷). Cũng tương tự như vậy, chữ hành sẽ biến thành hành thảo (行草). Tác phẩm thư pháp rất nổi tiếng Lan Đình Tập Tự (蘭亭集序) của Vương Hi Chi (王羲之) đời Tấn được viết với chữ hành. Chữ thảo (thảo thư) là thư thể được viết nhanh nhất, bút pháp phóng khoáng. Có chữ Hán khi viết bình thường theo lối chữ khải thì phải viết rất nhiều nét nhưng với thảo thư thì có thể viết bằng một nét. Nhiều chữ có thể viết liên miên nối tiếp nhau chỉ bằng một nét, thí dụ như cuồng thảo (狂草) (chữ thảo viết điên cuồng) của Hoài Tố (懷素, khoảng 730-780)Vào khoảng giữa thế kỷ 2 và 4, nghệ thuật viết chữ được mệnh danh là thư phápđã trở thành một bộ môn nghệ thuật tao nhã cao siêu của tao nhân mặc khách; mộtngười điêu luyện về thư pháp thường được đánh giá là người trí thức có học vấncao. Trong thời này, Vương Hi Chi (303-361), một đại quan và một đại thư gia, đãđược người đời tôn là «Thảo thánh» (草聖).Cuồng thảo của Hoài Tố đời ĐườngCác nhà thư pháp Trung Hoa Vương Hi Chi Nhan Chân Khanh Tô Thức Tống Huy Tông Nhan Chi Suy Mao Trạch Đông Tưởng Giới Thạch
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
mỹ thuật dân gian thư pháp mỹ thuật hình họa danh họa nổi tiếng trường phái hội họa kỹ thuật vẽ kiến thức mỹ thuậtTài liệu có liên quan:
-
Tranh biếm họa trào phúng của họa sỹ Pawel Kuczynski
10 trang 348 0 0 -
7 trang 88 0 0
-
10 trang 63 0 0
-
Sơ lược về Mỹ thuật thời Trần (1226-1400)
10 trang 62 0 0 -
CHÂN DUNG HỌA SỸ NGUYỄN GIA TRÍ
3 trang 53 1 0 -
QUANG LONG TỰ CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC ĐỘC ĐÁO
5 trang 48 0 0 -
TRANH GƯƠNG CUNG ĐÌNH MỸ THUẬT HUẾ
7 trang 48 0 0 -
5 trang 44 0 0
-
CON ĐƯỜNG GỐM SỨ MỸ THUẬT-TỪ Ý TƯỞNG ĐẾN HIỆN THỰC
7 trang 43 0 0 -
CON CHUỘT TRÊN GỐM CỔ MỸ THUẬT
6 trang 42 0 0 -
NỖI NIỀM TRONG TRANH NGUYỄN HỒNG PHI
5 trang 41 0 0 -
CHÙA THẦY ĐỘC ĐÁO NÉT KIẾN TRÚC XỨ ĐOÀI XƯA
6 trang 40 0 0 -
Giáo trình Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam
53 trang 39 0 0 -
MỸ THUẬT CUỐI ĐỜI MANG TÊN 'CARNET DE ĐÀO ĐỨC'
5 trang 38 0 0 -
CỐ HOẠ SĨ NGUYỄN THUỶ TUÂN - CUỘC ĐỜI VÀ NGHỆ THUẬT
5 trang 38 1 0 -
Bộ dụng cụ cho môn Hình Họa Chì
3 trang 38 0 0 -
TEM TẾT VIỆT NAM ĐÓN CÁC NĂM SỬU
5 trang 38 0 0 -
MỸ THUẬT ỨNG DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
10 trang 37 0 0 -
11 trang 37 0 0
-
6 trang 36 0 0