Danh mục tài liệu

Tiểu luận: GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA

Số trang: 24      Loại file: pdf      Dung lượng: 0.00 B      Lượt xem: 106      Lượt tải: 0    
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Giáo dục so sánh là một lĩnh vực nghiên cứu, tập hợp của nhiều môn học khác nhau. Nó thẩm định, đánh giá nền giáo dục của các nước đã phát triển cũng như đang phát triển. Nó đánh giá vai trò của nền giáo dục ấy với sự phát triển của cả cá nhân và đất nước. Nó cũng nghiên cứu các hệ thống giáo dục và thẩm định các giá trị xã hội ảnh hưởng đến hệ thống giáo dục đó như thế nào. Nó đề cập đến vai trò, mục tiêu của một nền giáo dục và...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận: GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA GVHD: TS NGUYỄN VĂN TUẤN Tiểu luận GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA HVTH: TRẦN THỊ HẠNH THẢO Trang 1 GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA GVHD: TS NGUYỄN VĂN TUẤN MỞ ĐẦU Giáo dục so sánh là một lĩnh vực nghiên cứu, tập hợp của nhiều môn học khác nhau. Nó thẩm định, đánh giá nền giáo dục của các nước đã phát triển cũng như đang phát triển. Nó đánh giá vai trò của nền giáo dục ấy với sự phát triển của cả cá nhân và đất nước. Nó cũng nghiên cứu các hệ thống giáo dục và thẩm định các giá trị xã hội ảnh hưởng đến hệ thống giáo dục đó như thế nào. Nó đề cập đến vai trò, mục tiêu của một nền giáo dục và hiệu quả của nó đối với xã hội. Đặc biệt khi nghiên cứu, chú ý nhiều tới các chính sách và hoạch định cộng đồng của một nền giáo dục. Với đặc điểm chung là: “Từ nền giáo dục thuộc địa tới độc lập, phát triển“, Việt Nam và Malaysia có điểm xuất phát giống nhau. Nhưng hiện nay, Malaysia là một trong những nước có trình độ phát triển KH- CN cao trong khu vực ASIAN với chiến lược công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu có hàm lượng chất xám cao. Ở Việt Nam, chưa lúc nào chất lượng giáo dục lại được đặt ra như một nhu cầu bức thiết như hiện nay. Đổi mới là con đường duy nhất để giáo dục phát triển và phát triển bền vững. Chúng ta hãy xem xét thực trạng hệ thống giáo dục Việt Nam so với Malaysia là nước trong khu vực, có cùng điểm xuất phát để từ đó đề xuất hướng phát triển hệ thống giáo dục Việt Nam cho phù hợp với các quốc gia trong khu vực và thế giới. HVTH: TRẦN THỊ HẠNH THẢO Trang 2 GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA GVHD: TS NGUYỄN VĂN TUẤN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: GIÁO DỤC VIỆT NAM 1.1 Tình hình giáo dục : Cả nước có khoảng 17,123 triệu học sinh, sinh viên , trong đó có 7,75 triệu học sinh tiểu học và 6,62 triệu học sinh trung học cơ sở và khoảng 2,76 triệu học sinh trung học phổ thông. Hàng năm khoảng 1,6 triệu học sinh vào học tiểu học, khoảng 1,4 triệu học tốt nghiệp phổ thông cơ sở, khoảng 850.000 học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông (50% học sinh cùng độ tuổi) và khoảng 197.000 vào học đại học cao đẳng (12% thanh niên cùng độ tuổi). số học sinh, sinh viên hàng năm trong các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Trung học chuyên nghiệp Đại học cao đẳng 25000 20000 15000 Ngìn học sinh 10000 5000 0 1995 - 1996 - 1997 - 1998 - 1999 - 2000 - 2001 - 2002 - 2003 - 2004 - 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tỉ lệ biết chữ ở Việt Nam tương đối cao (92% dân số). Trong số 8% dân số mù chữ thì 80% sống ở vùng nông thôn, trong đó 60% là phụ nữ. Ngân sách nhà nước dành cho giáo dục tăng nhanh trong thời gian qua, chiếm khoảng 10% - 15% ngân sách nhà nước. HVTH: TRẦN THỊ HẠNH THẢO Trang 3 GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA GVHD: TS NGUYỄN VĂN TUẤN Ngân sách dành cho giáo dục và đào tạo của khu vực tư nhân ước tính là trên 40% tổng chi phí trực tiếp. Trong số đó nhiều nhất là chi cho cấp mẫu giáo và trung học cơ sở (khoảng 60%) rồi đến tiểu học (dưới 50%), trung học chuyên ban (19%) và trung học chuyên nghiệp và trung học nghề (12%). Bên cạnh các thành tích đó, hệ thống giáo dục đào tạo của Việt Nam còn đang đứng trước nhiều khó khăn. Trường lớp còn thô sơ, trang thiết bị nghèo nàn lạc hậu, giáo trình thiếu cập nhật, trình độ giáo viên chưa cao và chưa được quan tâm đúng mức. Đặc biệt hiện vẫn còn hàng triệu trẻ em không đến trường. Trong thời điểm đất nước đang tiến hành đổi mới, cải cách giáo dục thì những con số thống kê về giáo dục giai đoạn 2003-2005 sẽ phần nào nhìn nhận một cách khách quan hơn về thực trạng trên. Cả nước hướng tới xây dựng một xã hội học tập từ cơ sở. Ở một đất nước đang phát triển, thu nhập GDP và bình quân USD/ người chưa cao, hơn 80 triệu dân, nhưng có tới 22 triệu người đi học - bình quân, cứ bốn người dân có hơn một người đi học. Vừa qua được UNESCO xếp thứ 64/127 nước về phát triển giáo dục. Như một quy luật tất yếu của mọi quốc gia đang phát triển, giáo dục nước ta đang dịch chuyển từ giai đoạn tinh hoa sang giai đoạn phổ cập (giáo dục phổ thông) và đại chúng (giáo dục đại học), dịch chuyển từ nền giáo dục 5% dân cư đi học, sang nền giáo dục 100% dân cư đi học. Không thể phủ nhận những thành quả ấy nhưng rõ ràng, nền giáo dục Việt Nam đang đứng trước một thử thách lớn về mặt chất lượng ở tất cả các cấp học. 1.2 Mục tiêu và chính sách phát triển giáo dục và đào tạo: Mục tiêu phát triển các cấp bậc học, trình độ và loại hình giáo dục: Nâng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở các trình độ vào năm 2010 đạt 40%, trong đó từ cao đẳng trở lên 6%, trung học chuyên nghiệp 8%, công nhân kỹ thuật 26%. Thực hiện phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Chính phủ đặt vào các mục tiêu sau: - Hầu hết trẻ em 5 tuổi được học chương trình mẫu giáo lớn, chuẩn bị vào lớp 1. - Phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước. Phổ cập trung học cơ sở ở thành phố, vùng kinh tế trọng điểm và nơi có điều kiện. - Tính chung cả nước có 60% trẻ em độ tuổi 11-15 học trung học cơ sở. Mở rộng và nâng cao chất lượng dạy kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp, ngoại ngữ, tin học ở trường trung học. - Thanh toán nạn mù chữ cho những người trong độ tuổi 15-3 ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu có liên quan: