
TÍNH DÂN TỘC VỚI CÁC TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH VIỆT NAM
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 139.46 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mỹ thuật Việt Nam đã kế thừa và phát huy được tinh hoa nghệ thuật truyền thống hàng ngàn năm của ông cha để xây dựng một nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam rất đáng tự hào. Năm 1925 trường Mỹ thuật Đông Dương được thành lập, là nhân tố quan trọng cho sự hình thành và phát triển của nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, các thế hệ họa sĩ và nhà điêu khắc như những chiến sĩ đem hết sức lực tài năng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TÍNH DÂN TỘC VỚI CÁC TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH VIỆT NAM TÍNH DÂN TỘC VÀ TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH VIỆT NAM TRƯƠNG BÉ-Sự sống-sơn mài Mỹ thuật Việt Nam đã kế thừa và phát huy được tinh hoa nghệ thuật truyền thống hàng ngàn năm của ông cha để xây dựng một nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam rất đáng tự hào. Năm 1925 trường Mỹ thuật Đông Dương được thành lập, là nhân tố quan trọng cho sự hình thành và phát triển của nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, các thế hệ họa sĩ và nhà điêu khắc như những chiến sĩ đem hết sức lực tài năng của mình phục vụ kháng chiến cho đến ngày thắng lợi. Hòa bình thống nhất đất nước, các thế hệ họa sĩ, nhà điêu khắc và những người làm công tác mỹ thuật tiếp tục đóng góp công sức rất lớn trong việc đặt nền móng cho sự nghiệp mỹ thuật nước nhà. Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Sáng, Nguyễn Phan Chánh, Diệp Minh Châu, Nguyễn Tiến Chung, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sỹ Ngọc, Nguyễn Khang, Nguyễn Văn Tỵ, Hoàng Tích Chù, Nguyễn Thị Kim, Huỳnh Văn Gấm, Dương Bích Liên, Nguyễn Hải... từ lâu đã là những tên tuổi lớn của nền Mỹ thuật Việt Nam. Nghệ thuật cách mạng đã tạo nên một trang sử Mỹ thuật với nhiều phong cách, cá tính sáng tạo đem đến những biến đổi về chất của nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Năm 1986, Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo sự đổi mới toàn diện về kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước. Nghị quyết Trung ương 5 về văn hóa văn nghệ của Bộ Chính trị như một luồng gió mới trong lành. Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi tìm tòi sáng tạo trong văn học nghệ thuật. Tôn trọng cá tính sáng tạo của các nghệ sĩ, đồng thời góp phần xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc hiện đại. Tại đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1986) kêu gọi đổi mới toàn diện về mọi mặt tư duy chính trị - kinh tế - văn hóa xã hội. Mặc dù không khí sáng tác mỹ thuật thời kì này tự do hơn, cởi mở hơn. Phong cách nghệ thuật đã bắt đầu đa dạng hơn, phong phú hơn; song cũng chỉ là những biểu hiện của thời kì đầu mở cửa hội nhập. Sự đổi mới mạnh mẽ trong nghệ thuật tạo hình phải đến thập kỷ 90 mới bộc lộ rõ rệt. Trước hết là đổi mới về hoạt động nghệ thuật, các triển lãm hội họa cá nhân và nhóm xuất hiện ngày càng nhiều. Đời sống mỹ thuật sôi động, các họa sĩ thật sự bị cuốn hút vào công việc sáng tác và công bố tác phẩm. Tự lo đời sống, sáng tác và triển lãm là điều trước đây chưa từng xảy ra. Thập kỷ 90 cũng được coi là thập kỷ đánh dấu sự ra đời ồ ạt các gallery nghệ thuật, các nhà sưu tập nghệ thuật mới, góp phần hình thành thị trường nghệ thuật trong nước. Bắt đầu có sự giao lưu trao đổi triển lãm với quốc tế. Sự đổi mới có tính căn bản đó là đổi mới nhận thức và đổi mới quan niệm nghệ thuật. Nghệ thuật tạo hình không còn rập khuôn cách nhìn, cách biểu hiện hiện thực mà chuyển sang giai đoạn phát triển nhiều cách biểu hiện khác nhau. Do tính quốc tế hóa của nghệ thuật nên xuất hiện các loại hình pop - art, installation, performance, video art. Đây là sự ảnh hưởng tất yếu của nghệ thuật trong quá trình mở cửa hội nhập và đổi mới. Người Việt Nam chưa quen cảm thụ các loại hình nghệ thuật còn quá mới lạ nên không tránh khỏi sự ngỡ ngàng. Mặt khác, một số tác giả trẻ do chưa đầy đủ bản lĩnh, vốn sống, kinh nghiệm nghề nghiệp, đặc biệt là vốn văn hóa dân tộc nên cách đặt vấn đề cũng như giải pháp thể hiện vào tác phẩm sắp đặt, trình diễn, video art chưa gây được hiệu quả về nội dung và xã hội cũng như thẩm mỹ, nên thiếu sự hưởng ứng của công chúng. Dù vậy năm 2007, các cơ quan văn hóa vẫn tổ chức cuộc trưng bày có tính quy mô toàn quốc tại trường Đại học mỹ thuật Việt Nam. Sau cuộc triển lãm cho đến nay, các loại hình nghệ thuật này có phần thưa dần. Hy vọng trong tương lai, các thể loại này sẽ tiếp tục được các nghệ sĩ tìm tòi nghiên cứu, không ngừng nâng cao chất lượng sáng tác vừa mang sắc thái Việt Nam dân tộc vùa hiện đại. Khuyến khích và tôn trọng mọi tìm tòi sáng tạo. Tôn trọng mọi khuynh hướng và phong cách nghệ thuật đã làm cho không khí sáng tác càng sôi động. Đội ngũ sáng tác ngày càng đông đảo, nhiều gương mặt mới xuất hiện. Nhiều cách tiếp cận và phản ánh cuộc sống theo cách nhìn, cách vẽ khác nhau được công bố. Nhận thức thay đổi dẫn đến quan niệm nghệ thuật thay đổi. Người nghệ sĩ được hoàn toàn tự do sáng tạo nên không khí nghệ thuật được cởi mở. Đã có nhiều triển lãm tranh trừu tượng cá nhân và nhóm ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh từ những năm đầu mở cửa 1988 đến những năm sau 1992. Các họa sĩ cao niên trong giai đoạn này, vẫn chủ yếu sáng tác theo khuynh hướng hiện thực. Trong sáng tác của họ luôn giữ được bản sắc dân tộc. Nhưng ngôn ngữ biểu hiện có phần bị hạn chế chưa đưa được các yếu tố hiện đại vào tác phẩm, do vậy cũng hạn chế ít nhiều đến hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm. Các họa sĩ và nhà điêu khắc thuộc thế hệ thứ hai và thứ ba của nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam đã tiếp bước đàn anh đi trước, trở thành thế hệ nghệ sĩ tạo hình trong thời kỳ đổi mới. Đây là lực lượng sáng tác sung sức và đầy nhiệt huyết. Nhiều tác giả đã định hình, nổi tiếng với nhiều phong cách, cá tính sáng tạo mới. Các tác giả của thế hệ này sáng tác theo nhiều khuynh hướng khác nhau: hiện thực, siêu thực, lập thể, trừu tượng. Họ thành công trong việc học tập có chọn lọc những tinh hoa nghệ thuật của thế giới và tiếp thu những đỉnh cao giá trị của nghệ thuật dân tộc để vận dụng một cách nhuần nhuyễn vào tác phẩm của mình, tạo nên những sắc thái mới và hiệu quả cho cả nội dung lẫn hình thức trong các tác phẩm. Hội họa trừu tượng sơn mài là một trong những thành công của các tác giả trung và cao niên trong thời kỳ này. ít thấy các nước trên thế giới dùng kỹ thuật sơn mài truyền thống để biểu hiện ngôn ngữ tạo hình theo xu hướng trừu tượng như ở Việt Nam. Nhìn vào một bức tranh trừu tượng sơn mài, chúng ta thấy rất rõ tính dân tộc ở kỹ thuật và chất liệu. Vẽ, đắp nổi, pha độn màu, mài, ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TÍNH DÂN TỘC VỚI CÁC TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH VIỆT NAM TÍNH DÂN TỘC VÀ TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH VIỆT NAM TRƯƠNG BÉ-Sự sống-sơn mài Mỹ thuật Việt Nam đã kế thừa và phát huy được tinh hoa nghệ thuật truyền thống hàng ngàn năm của ông cha để xây dựng một nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam rất đáng tự hào. Năm 1925 trường Mỹ thuật Đông Dương được thành lập, là nhân tố quan trọng cho sự hình thành và phát triển của nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, các thế hệ họa sĩ và nhà điêu khắc như những chiến sĩ đem hết sức lực tài năng của mình phục vụ kháng chiến cho đến ngày thắng lợi. Hòa bình thống nhất đất nước, các thế hệ họa sĩ, nhà điêu khắc và những người làm công tác mỹ thuật tiếp tục đóng góp công sức rất lớn trong việc đặt nền móng cho sự nghiệp mỹ thuật nước nhà. Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Sáng, Nguyễn Phan Chánh, Diệp Minh Châu, Nguyễn Tiến Chung, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sỹ Ngọc, Nguyễn Khang, Nguyễn Văn Tỵ, Hoàng Tích Chù, Nguyễn Thị Kim, Huỳnh Văn Gấm, Dương Bích Liên, Nguyễn Hải... từ lâu đã là những tên tuổi lớn của nền Mỹ thuật Việt Nam. Nghệ thuật cách mạng đã tạo nên một trang sử Mỹ thuật với nhiều phong cách, cá tính sáng tạo đem đến những biến đổi về chất của nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Năm 1986, Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo sự đổi mới toàn diện về kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước. Nghị quyết Trung ương 5 về văn hóa văn nghệ của Bộ Chính trị như một luồng gió mới trong lành. Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi tìm tòi sáng tạo trong văn học nghệ thuật. Tôn trọng cá tính sáng tạo của các nghệ sĩ, đồng thời góp phần xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc hiện đại. Tại đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1986) kêu gọi đổi mới toàn diện về mọi mặt tư duy chính trị - kinh tế - văn hóa xã hội. Mặc dù không khí sáng tác mỹ thuật thời kì này tự do hơn, cởi mở hơn. Phong cách nghệ thuật đã bắt đầu đa dạng hơn, phong phú hơn; song cũng chỉ là những biểu hiện của thời kì đầu mở cửa hội nhập. Sự đổi mới mạnh mẽ trong nghệ thuật tạo hình phải đến thập kỷ 90 mới bộc lộ rõ rệt. Trước hết là đổi mới về hoạt động nghệ thuật, các triển lãm hội họa cá nhân và nhóm xuất hiện ngày càng nhiều. Đời sống mỹ thuật sôi động, các họa sĩ thật sự bị cuốn hút vào công việc sáng tác và công bố tác phẩm. Tự lo đời sống, sáng tác và triển lãm là điều trước đây chưa từng xảy ra. Thập kỷ 90 cũng được coi là thập kỷ đánh dấu sự ra đời ồ ạt các gallery nghệ thuật, các nhà sưu tập nghệ thuật mới, góp phần hình thành thị trường nghệ thuật trong nước. Bắt đầu có sự giao lưu trao đổi triển lãm với quốc tế. Sự đổi mới có tính căn bản đó là đổi mới nhận thức và đổi mới quan niệm nghệ thuật. Nghệ thuật tạo hình không còn rập khuôn cách nhìn, cách biểu hiện hiện thực mà chuyển sang giai đoạn phát triển nhiều cách biểu hiện khác nhau. Do tính quốc tế hóa của nghệ thuật nên xuất hiện các loại hình pop - art, installation, performance, video art. Đây là sự ảnh hưởng tất yếu của nghệ thuật trong quá trình mở cửa hội nhập và đổi mới. Người Việt Nam chưa quen cảm thụ các loại hình nghệ thuật còn quá mới lạ nên không tránh khỏi sự ngỡ ngàng. Mặt khác, một số tác giả trẻ do chưa đầy đủ bản lĩnh, vốn sống, kinh nghiệm nghề nghiệp, đặc biệt là vốn văn hóa dân tộc nên cách đặt vấn đề cũng như giải pháp thể hiện vào tác phẩm sắp đặt, trình diễn, video art chưa gây được hiệu quả về nội dung và xã hội cũng như thẩm mỹ, nên thiếu sự hưởng ứng của công chúng. Dù vậy năm 2007, các cơ quan văn hóa vẫn tổ chức cuộc trưng bày có tính quy mô toàn quốc tại trường Đại học mỹ thuật Việt Nam. Sau cuộc triển lãm cho đến nay, các loại hình nghệ thuật này có phần thưa dần. Hy vọng trong tương lai, các thể loại này sẽ tiếp tục được các nghệ sĩ tìm tòi nghiên cứu, không ngừng nâng cao chất lượng sáng tác vừa mang sắc thái Việt Nam dân tộc vùa hiện đại. Khuyến khích và tôn trọng mọi tìm tòi sáng tạo. Tôn trọng mọi khuynh hướng và phong cách nghệ thuật đã làm cho không khí sáng tác càng sôi động. Đội ngũ sáng tác ngày càng đông đảo, nhiều gương mặt mới xuất hiện. Nhiều cách tiếp cận và phản ánh cuộc sống theo cách nhìn, cách vẽ khác nhau được công bố. Nhận thức thay đổi dẫn đến quan niệm nghệ thuật thay đổi. Người nghệ sĩ được hoàn toàn tự do sáng tạo nên không khí nghệ thuật được cởi mở. Đã có nhiều triển lãm tranh trừu tượng cá nhân và nhóm ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh từ những năm đầu mở cửa 1988 đến những năm sau 1992. Các họa sĩ cao niên trong giai đoạn này, vẫn chủ yếu sáng tác theo khuynh hướng hiện thực. Trong sáng tác của họ luôn giữ được bản sắc dân tộc. Nhưng ngôn ngữ biểu hiện có phần bị hạn chế chưa đưa được các yếu tố hiện đại vào tác phẩm, do vậy cũng hạn chế ít nhiều đến hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm. Các họa sĩ và nhà điêu khắc thuộc thế hệ thứ hai và thứ ba của nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam đã tiếp bước đàn anh đi trước, trở thành thế hệ nghệ sĩ tạo hình trong thời kỳ đổi mới. Đây là lực lượng sáng tác sung sức và đầy nhiệt huyết. Nhiều tác giả đã định hình, nổi tiếng với nhiều phong cách, cá tính sáng tạo mới. Các tác giả của thế hệ này sáng tác theo nhiều khuynh hướng khác nhau: hiện thực, siêu thực, lập thể, trừu tượng. Họ thành công trong việc học tập có chọn lọc những tinh hoa nghệ thuật của thế giới và tiếp thu những đỉnh cao giá trị của nghệ thuật dân tộc để vận dụng một cách nhuần nhuyễn vào tác phẩm của mình, tạo nên những sắc thái mới và hiệu quả cho cả nội dung lẫn hình thức trong các tác phẩm. Hội họa trừu tượng sơn mài là một trong những thành công của các tác giả trung và cao niên trong thời kỳ này. ít thấy các nước trên thế giới dùng kỹ thuật sơn mài truyền thống để biểu hiện ngôn ngữ tạo hình theo xu hướng trừu tượng như ở Việt Nam. Nhìn vào một bức tranh trừu tượng sơn mài, chúng ta thấy rất rõ tính dân tộc ở kỹ thuật và chất liệu. Vẽ, đắp nổi, pha độn màu, mài, ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
nghiên cứu mỹ thuật mỹ thuật đương đại kiến thức mỹ thuật danh họa tác phẩm hội họa mỹ thuật truyền thôngTài liệu có liên quan:
-
Tranh biếm họa trào phúng của họa sỹ Pawel Kuczynski
10 trang 349 0 0 -
Một số tác giả, tác phẩm của hội họa cách mạng Việt Nam
39 trang 99 0 0 -
7 trang 88 0 0
-
10 trang 64 0 0
-
Sơ lược về Mỹ thuật thời Trần (1226-1400)
10 trang 63 0 0 -
CHÂN DUNG HỌA SỸ NGUYỄN GIA TRÍ
3 trang 53 1 0 -
TRANH GƯƠNG CUNG ĐÌNH MỸ THUẬT HUẾ
7 trang 49 0 0 -
QUANG LONG TỰ CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC ĐỘC ĐÁO
5 trang 48 0 0 -
MỖI BỨC TRANH MỸ THUẬT - MỘT TẤM LÒNG
11 trang 48 0 0 -
ĐÔI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT MỸ THUẬT SƠN MÀI VIỆT NAM
8 trang 46 0 0 -
5 trang 44 0 0
-
CON CHUỘT TRÊN GỐM CỔ MỸ THUẬT
6 trang 43 0 0 -
CON ĐƯỜNG GỐM SỨ MỸ THUẬT-TỪ Ý TƯỞNG ĐẾN HIỆN THỰC
7 trang 43 0 0 -
NỖI NIỀM TRONG TRANH NGUYỄN HỒNG PHI
5 trang 42 0 0 -
CHÙA THẦY ĐỘC ĐÁO NÉT KIẾN TRÚC XỨ ĐOÀI XƯA
6 trang 41 0 0 -
Tạp chí Thông tin - Số 25+26 (1/2009)
68 trang 40 0 0 -
MỸ THUẬT CUỐI ĐỜI MANG TÊN 'CARNET DE ĐÀO ĐỨC'
5 trang 40 0 0 -
CỐ HOẠ SĨ NGUYỄN THUỶ TUÂN - CUỘC ĐỜI VÀ NGHỆ THUẬT
5 trang 40 1 0 -
TEM TẾT VIỆT NAM ĐÓN CÁC NĂM SỬU
5 trang 39 0 0 -
MỸ THUẬT ỨNG DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
10 trang 39 0 0