Trẻ em lang thang, một vấn đề xã hội cần được quan tâm - Đỗ Ngọc Phương
Số trang: 0
Loại file: pdf
Dung lượng: 273.02 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết "Trẻ em lang thang, một vấn đề xã hội cần được quan tâm" trình bày những kết quả nghiên cứu từ vấn đề trẻ em lang thang như: Những đặc điểm nhân khẩu, xã hội của trẻ em lang thang, hoạt động của trẻ em trên đường phố, một số nguyên nhân trẻ đi lang thang và giải pháp,... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung bài viết để nắm bắt nội dung chi tiết.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Trẻ em lang thang, một vấn đề xã hội cần được quan tâm - Đỗ Ngọc Phương76 Xã hội học số 2 (50), 1995 Trẻ em lang thang - một vấn đề xã hội cần được quan tâm ĐỖ NGỌC PHƯƠNG Vấn đề trẻ em lang thang đang là mối quan tâm của nhiều Quốc gia trên thế giới. TheoUNICEF hiện nay có khoảng 100 triệu em rơi vào hoàn cảnh này. Ở Việt Nam chưa có một cuộc điều tra nào trên phạm vi cà nước để thống kê đầy đủ chínhxác số lượng trẻ em lang thang hiện nay. Một số các Bộ, Ngành đã đưa ta một vài con số ướctính như ngành Lao động - TBXH cho biết có khoảng 50.000 trê em lang thang, UNICEF HàNội đưa ra số liệu khoảng 22.000 em và theo thống kê chưa đầy đủ của ủy ban Bảo vệ và chămsóc trẻ em (UBBVC8TE) 53 tỉnh, thành có gần 20.000 trẻ em lang thang. Bài viết này muốn đề cập đến một phần kết quả khảo sát của UBBVCSTEVN đã phối hợpvới một số trường và viện nghiên cứu tiến hành tại Hà Nội và thành phố Hồ Chi Minh tháng 6và 7 năm 1993 về một số đối tượng trẻ em cố hoàn cảnh khó khăn, trong đó có đối tượng trẻem lang thang. Việc khảo sát đã nghiên cứu về thực trạng hoàn cảnh, cuộc sống, nhu cầu,nguyện vọng... của trẻ lang thang ở hai thành phố, về những nguyên nhân của các thực trạngtrên... nhằm đưa ra những giải pháp tích cực để phòng ngừa và ngăn chặn vấn đề xã hội này. I -NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA CUỘC KHẢO SÁT 1- Có nhiều cách định nghĩa về trẻ lang thang, do vậy đã ảnh hưởng không ít đến việc thốngkê chính xác số lượng đối tượng này. Qua một số cuộc thảo luận, một số tài liệu nghiên cứu vàqua xem xét thực tiễn, cuộc khảo sát đã lựa chọn tiến hành theo cách phân loại chia trẻ langthang thành 3 nhóm phổ biến: 1. Những trẻ bị bỏ rơi không còn bố mẹ hoặc rời bỏ gia đình,sống theo băng nhóm và ăn ngủ ngoài đường phố; 2. Trẻ lang thang cùng với gia đình hoặcngười bảo hộ, tối ngủ ngoài đường phố hoặc tại nhà người quen, hoặc thuê trọ; 3. Trẻ langthang có gia đình hoặc người bảo hộ, ngày đi lang thang tối về nhà ngủ. Việc phân loại trên chí mang tính chất tương đối, nhưng thuận lợi cho việc xác đinh phạmvi khách thể để khảo sát và việc đề ra những giải pháp phù hợp sau khảo sát. Để tăng tínhthuyết phục của khách thể nghiên cứu, cuộc khảo sát đã xác định: trẻ lang thang có hành viphạm tội và trẻ em đang làm thuê tại các cơ sở sản xuất của tư nhân, tập thể hoặc làm các côngviệc mang tính ổn định đều không nằm trong phạm vi của đối tượng khảo sát này. Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn Đỗ Ngọc Phương 77 2- Cuộc khảo sát được tiến hành ở các thời điểm trong ngày, tùy thuộc vào các địa bànhoạt động của các em. Đã sử dụng hệ thống câu hỏi được xây dựng với sự đóng góp của nhiềuchuyên gia và được đúc kết từ kinh nghiệm của một số cuộc điều tra khác. Bảng hỏi gồm 27câu hỏi chính, đề cập đến một số nội dung: những nét chung về trê, học tập, sức khỏe, gia đình,công việc trên đường phố, sinh hoạt và nguyện vọng của trẻ v.v... Ngoài bảng hỏi đó cuộckhảo sát còn tiến hành bảng hỏi 391 cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý có liên quan đến trẻ cóhoàn cảnh khó khăn để bổ sung những thông tin và đánh giá cần thiết cho cuộc khảo sát. 3- Địa bàn khảo sát: cuộc khảo sát được tiến hành ở một số trọng điểm của các địa bàn:Quận 1,3,4,5,6 Quận Bình Thạch, huyện Nhà Bè... thành phố Hồ Chí Minh và các Quận BaĐình, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Đống Đa thành phố Hà Nội. Đó là các khu vực có nhiềukhách sạn, nhà hàng, các chợ lớn, các công việc, cảng, bến xe, nhà ga. Là nơi tập trung đôngđúc dân cư, có nhiều hoạt động phong phú nên trê dễ dàng kiếm ăn bằng nhiều hoạt động. Việcphân bổ phiếu không như nhau ở hai thành phố và các địa bàn khảo sát mà tùy thuộc vào ướclượng số trẻ lang thang theo thông báo của địa phương và vào mức độ tập trung kiếm ăn củacác em, do vậy số phiếu ở thành phố Hồ Chí Minh chiếm nhiều hơn. Việc trùng lặp đối tượngsẽ được loại trừ vì hàng ngày nhóm khảo sát đều thông báo tình hình cho nhau, hơn nữa bảnghỏi có những câu ỏi giúp cho việc kiểm tra thông tin tránh được sự trùng lặp. Số phiếu thuđược chính thức là 1009 phiếu (809 phiếu ở thành phố Hồ Chí Minh và 200 phiếu ở Hà Nội),các phiếu đều đã được xử lý bằng máy vi tính theo từng nhóm vấn đề cần quan tâm. II -MỘT SỐ KẾT QUẢ CHỦ YẾU 1. Những đặc điểm nhân khẩu - xã hội của trẻ lang thang 1.1 Nguồn gốc của trẻ và thời gian rời nhà ra đi. Kết quả khảo sát cho thấy những năm gần đây số trẻ lang thang đổ về Hà Nội, thành phốHồ Chí Minh khá nhiều. Trẻ lang thang ở thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu là Đồng Tháp, CầnThơ, An Giang, các tỉnh miền Trung và miền Bắc như Thừa Thiên Huế, Quảng Nam-Đà Nẵng,Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Nghệ An, Thanh Hóa.... Trẻ lang thang ở Hà Nội, chủ yếu là ở cáctỉnh Thanh Hóa, Nam Hà, Hải Hưng, Hà Tây, Ninh Bình. Bảng 1 cho biết thời gian rời nhà rađi của các em những năm gần đây nh ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Trẻ em lang thang, một vấn đề xã hội cần được quan tâm - Đỗ Ngọc Phương76 Xã hội học số 2 (50), 1995 Trẻ em lang thang - một vấn đề xã hội cần được quan tâm ĐỖ NGỌC PHƯƠNG Vấn đề trẻ em lang thang đang là mối quan tâm của nhiều Quốc gia trên thế giới. TheoUNICEF hiện nay có khoảng 100 triệu em rơi vào hoàn cảnh này. Ở Việt Nam chưa có một cuộc điều tra nào trên phạm vi cà nước để thống kê đầy đủ chínhxác số lượng trẻ em lang thang hiện nay. Một số các Bộ, Ngành đã đưa ta một vài con số ướctính như ngành Lao động - TBXH cho biết có khoảng 50.000 trê em lang thang, UNICEF HàNội đưa ra số liệu khoảng 22.000 em và theo thống kê chưa đầy đủ của ủy ban Bảo vệ và chămsóc trẻ em (UBBVC8TE) 53 tỉnh, thành có gần 20.000 trẻ em lang thang. Bài viết này muốn đề cập đến một phần kết quả khảo sát của UBBVCSTEVN đã phối hợpvới một số trường và viện nghiên cứu tiến hành tại Hà Nội và thành phố Hồ Chi Minh tháng 6và 7 năm 1993 về một số đối tượng trẻ em cố hoàn cảnh khó khăn, trong đó có đối tượng trẻem lang thang. Việc khảo sát đã nghiên cứu về thực trạng hoàn cảnh, cuộc sống, nhu cầu,nguyện vọng... của trẻ lang thang ở hai thành phố, về những nguyên nhân của các thực trạngtrên... nhằm đưa ra những giải pháp tích cực để phòng ngừa và ngăn chặn vấn đề xã hội này. I -NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA CUỘC KHẢO SÁT 1- Có nhiều cách định nghĩa về trẻ lang thang, do vậy đã ảnh hưởng không ít đến việc thốngkê chính xác số lượng đối tượng này. Qua một số cuộc thảo luận, một số tài liệu nghiên cứu vàqua xem xét thực tiễn, cuộc khảo sát đã lựa chọn tiến hành theo cách phân loại chia trẻ langthang thành 3 nhóm phổ biến: 1. Những trẻ bị bỏ rơi không còn bố mẹ hoặc rời bỏ gia đình,sống theo băng nhóm và ăn ngủ ngoài đường phố; 2. Trẻ lang thang cùng với gia đình hoặcngười bảo hộ, tối ngủ ngoài đường phố hoặc tại nhà người quen, hoặc thuê trọ; 3. Trẻ langthang có gia đình hoặc người bảo hộ, ngày đi lang thang tối về nhà ngủ. Việc phân loại trên chí mang tính chất tương đối, nhưng thuận lợi cho việc xác đinh phạmvi khách thể để khảo sát và việc đề ra những giải pháp phù hợp sau khảo sát. Để tăng tínhthuyết phục của khách thể nghiên cứu, cuộc khảo sát đã xác định: trẻ lang thang có hành viphạm tội và trẻ em đang làm thuê tại các cơ sở sản xuất của tư nhân, tập thể hoặc làm các côngviệc mang tính ổn định đều không nằm trong phạm vi của đối tượng khảo sát này. Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn Đỗ Ngọc Phương 77 2- Cuộc khảo sát được tiến hành ở các thời điểm trong ngày, tùy thuộc vào các địa bànhoạt động của các em. Đã sử dụng hệ thống câu hỏi được xây dựng với sự đóng góp của nhiềuchuyên gia và được đúc kết từ kinh nghiệm của một số cuộc điều tra khác. Bảng hỏi gồm 27câu hỏi chính, đề cập đến một số nội dung: những nét chung về trê, học tập, sức khỏe, gia đình,công việc trên đường phố, sinh hoạt và nguyện vọng của trẻ v.v... Ngoài bảng hỏi đó cuộckhảo sát còn tiến hành bảng hỏi 391 cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý có liên quan đến trẻ cóhoàn cảnh khó khăn để bổ sung những thông tin và đánh giá cần thiết cho cuộc khảo sát. 3- Địa bàn khảo sát: cuộc khảo sát được tiến hành ở một số trọng điểm của các địa bàn:Quận 1,3,4,5,6 Quận Bình Thạch, huyện Nhà Bè... thành phố Hồ Chí Minh và các Quận BaĐình, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Đống Đa thành phố Hà Nội. Đó là các khu vực có nhiềukhách sạn, nhà hàng, các chợ lớn, các công việc, cảng, bến xe, nhà ga. Là nơi tập trung đôngđúc dân cư, có nhiều hoạt động phong phú nên trê dễ dàng kiếm ăn bằng nhiều hoạt động. Việcphân bổ phiếu không như nhau ở hai thành phố và các địa bàn khảo sát mà tùy thuộc vào ướclượng số trẻ lang thang theo thông báo của địa phương và vào mức độ tập trung kiếm ăn củacác em, do vậy số phiếu ở thành phố Hồ Chí Minh chiếm nhiều hơn. Việc trùng lặp đối tượngsẽ được loại trừ vì hàng ngày nhóm khảo sát đều thông báo tình hình cho nhau, hơn nữa bảnghỏi có những câu ỏi giúp cho việc kiểm tra thông tin tránh được sự trùng lặp. Số phiếu thuđược chính thức là 1009 phiếu (809 phiếu ở thành phố Hồ Chí Minh và 200 phiếu ở Hà Nội),các phiếu đều đã được xử lý bằng máy vi tính theo từng nhóm vấn đề cần quan tâm. II -MỘT SỐ KẾT QUẢ CHỦ YẾU 1. Những đặc điểm nhân khẩu - xã hội của trẻ lang thang 1.1 Nguồn gốc của trẻ và thời gian rời nhà ra đi. Kết quả khảo sát cho thấy những năm gần đây số trẻ lang thang đổ về Hà Nội, thành phốHồ Chí Minh khá nhiều. Trẻ lang thang ở thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu là Đồng Tháp, CầnThơ, An Giang, các tỉnh miền Trung và miền Bắc như Thừa Thiên Huế, Quảng Nam-Đà Nẵng,Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Nghệ An, Thanh Hóa.... Trẻ lang thang ở Hà Nội, chủ yếu là ở cáctỉnh Thanh Hóa, Nam Hà, Hải Hưng, Hà Tây, Ninh Bình. Bảng 1 cho biết thời gian rời nhà rađi của các em những năm gần đây nh ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Xã hội học Trẻ em lang thang Vấn đề trẻ em lang thang Xã hội trẻ em lang thang Cuộc sống trẻ em lang thang Hoạt động trẻ em lang thangTài liệu có liên quan:
-
Phương pháp nghiên cứu xã hội học: Phần 1 - Phạm Văn Quyết
123 trang 511 12 0 -
Tiểu luận: Lý thuyết xã hội học
40 trang 279 0 0 -
Giới thiệu lý thuyết xã hội học Curriculum - Nguyễn Khánh Trung
0 trang 213 0 0 -
Tiểu luận 'Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội'
20 trang 190 0 0 -
Giáo trình Nhập môn xã hội học: Phần 1 - TS. Trần Thị Kim Xuyến
137 trang 166 1 0 -
TIỂU LUẬN: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC ĐỨC CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẦU THẾ KỈ XX
40 trang 140 0 0 -
Một số đặc điểm của Giáo phận Thái Bình
17 trang 131 0 0 -
Tiểu luận: Giới thiệu khái quát về điều tra xã hội học
42 trang 126 0 0 -
Những thuận lợi và thách thức trong phát triển xã hội bền vững ở Thừa Thiên Huế - Vũ Mạnh Lợi
0 trang 124 0 0 -
195 trang 107 0 0