
TƯ DUY BẢN SẮC VĂN HÓA HUẾ TRONG SÁNG TÁC MỸ THUẬT
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 144.77 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Văn hóa là một khái niệm có nội hàm rất rộng, là một cấu trúc có bề sâu, tức nó tồn tại trong tiềm thức của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng trong quá trình sinh sống và được lưu truyền qua nhiều thế hệ, tạo thành bản sắc riêng phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Văn hóa là tổng hợp mọi giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình cải tạo thiên nhiên. Văn là đẹp tươi. Hóa là biến đổi. Văn hóa là tùy...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TƯ DUY BẢN SẮC VĂN HÓA HUẾ TRONG SÁNG TÁC MỸ THUẬT TƯ DUY BẢN SẮC VĂN HÓA HUẾ TRONG SÁNG TÁC MỸ THUẬT CÔNG HUYỀN TÔN NỮ TUYẾT MAI- Âm sắc Huế-Sơn dầu Văn hóa là một khái niệm có nội hàm rất rộng, là một cấu trúc có bề sâu, tức nó tồn tại trong tiềm thức của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng trong quá trình sinh sống và được lưu truyền qua nhiều thế hệ, tạo thành bản sắc riêng phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Văn hóa là tổng hợp mọi giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình cải tạo thiên nhiên. Văn là đẹp tươi. Hóa là biến đổi. Văn hóa là tùy theo trình độ của con người mà có sự biến đổi theo xu hướng đẹp tươi. Văn hóa là những gì tồn tại theo thời gian, được thể hiện qua những biểu hiện sống hàng ngày của một dân tộc, quốc gia hay cộng đồng. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là thước đo trình độ phát triển của một dân tộc. Những tác phẩm mỹ thuật được sáng tạo và trưng bày thông qua chất liệu vật chất cụ thể, nhưng bản thân chúng đồng thời là văn hóa tinh thần của thời đại và khi nó có giá trị đi vào lịch sử mỹ thuật sẽ trở thành di sản văn hóa vật thể. Cấu trúc bản sắc văn hóa Huế được thể hiện ở mối quan hệ giữa danh và thực (nặng về danh tiếng, xem nhẹ thực chất), giữa hình thức và nội dung (chú trọng hình thức, thiếu quan tâm nội dung), giữa thực tại và tương lai (chỉ thấy trước mắt sẵn sàng đối phó với thực tại, ít nghĩ đến tương lai bỏ qua phòng ngừa). Như vậy, cấu trúc bản sắc văn hóa Huế, chứa đựng các mặt mâu thuẫn. Các mặt này can thiệp vào nhau, ức chế và cản trở lẫn nhau, dung hòa với nhau, không cho phép phát triển đến các trạng thái cực đoan để duy trì các mối quan hệ ổn định đặc biệt và do đó, không thể tạo nên một bước nhảy văn hóa để tiến lên làm thay đổi căn bản cơ cấu của cộng đồng. Những điều nói trên cũng giải thích được lý do vì sao trong tiến trình lịch sử phát triển Huế thời đại Tự Đức không chấp nhận những đầu óc canh tân, bản lĩnh Nguyễn Trường Tộ. Nhìn chung, sự thay đổi trong thể chế xã hội thường diễn ra một cách từ từ, chậm chạp. Người Huế không chấp nhận từ cực đoan này đến cực đoan khác. Thời bao cấp, mỹ thuật Huế có phong cách hiện thực xã hội chủ nghĩa không thể chấp nhận một họa sĩ có phong cách phi hiện thực là điều đương nhiên. Khi mỹ thuật phi hiện thực hấp dẫn người Huế, thì gần như mỹ thuật hiện thực bị bỏ rơi. Tìm cách thiết lập mối quan hệ mới trong cấu trúc bản sắc văn hóa để tiến tới một nền văn minh dựa vững chắc vào những truyền thống tốt đẹp vốn tạo thành bản sắc văn hóa Huế là điều thế hệ các tác giả mỹ thuật Huế cần phải đối mặt. Trong sáng tác, các tác phẩm mỹ thuật Huế không có cái mạnh mẽ của người Nam bộ, cũng thiếu cái chắc chắn của dân miền Bắc. Dương Đình Sang với những tác phẩm của mình, bàng bạc màu sương khói Huế, là thế giới của mộng tưởng nhiều ẩn dụ, là sự liên kết giữa khoảng không và vật chất. ẩn dưới những hình tượng nghệ thuật là phận người, những trải nghiệm cuộc đời trên nền xanh sâu thẳm của sông Hương, của tiếng vọng âm thanh vách đá thời gian dẫn chúng ta đi vào không gian thuần khiết và mãnh liệt, thơ mộng và chân thật. Lê Quý Long bay bổng trong áng văn lời thơ tuổi học trò. Màu tím trong âm sắc Huế của công Huyền Tôn nữ Tuyết Mai vừa kín đáo vừa nồng ấm. Ngọc Anh với tác phẩm điêu khắc đá Sóng ngầm tham dự trại sáng tác điêu khắc quốc tế tại Huế lần thứ nhất năm 1998 vừa thâm trầm vừa dữ dội đầy khát vọng theo cách của người Huế. Cuộc sống đa dạng của cộng đồng được biểu hiện trên bề mặt của xã hội, còn văn hóa có cấu trúc tiềm ẩn dưới bề mặt đó, nằm ở tầng sâu trong tiềm thức của con người, hình thành nên các quy tắc hướng dẫn tư duy, điều chỉnh hành vi ứng xử và phương thức hành động cũng như sự lựa chọn các thang bậc giá trị trong xã hội. Như vậy, cấu trúc văn hóa là cái tiềm ẩn và vô thức, không dễ nhận ra và rất khó mô tả, được hình thành một cách có phân hóa hướng vào các mục đích khác nhau và được tạo nên bởi các ý niệm khi tiếp xúc với những cái xa lạ. Có ba ý niệm cơ bản trong cấu trúc văn hóa Huế: ý niệm tâm linh, ý niệm ứng xử và ý niệm thẩm mỹ. ý thức sâu sắc được cấu trúc bản sắc văn hóa Huế, người sáng tác mỹ thuật ở Huế mới mong có được sự đột phá vươn lên từ các trường phái mỹ thuật hiện nay. Chính vì vậy, tư duy sáng tạo trên cơ sở của những tỷ lệ vàng Ngọ môn, không gian trầm mặc của phong cảnh Huế, dáng thiếu nữ mỏng manh trong sương khói mờ ảo, tím Huế, ngũ sắc Huế hoặc gam màu huyền ảo mộng mơ mà nhiều tác giả đã tạo ra bản sắc văn hóa Huế rất đặc sắc trong các tác phẩm mỹ thuật. Bản sắc văn hóa Huế - tiềm năng và là thế mạnh của người Huế - mà mỗi ngày những người sáng tác mỹ thuật có bản sắc văn hóa Huế thường phải chú ý trong hoạt động sáng tạo của mình. Bản sắc văn hóa Huế là cái cốt lõi, đặc trưng riêng có của người Huế trong lịch sử tồn tại và phát triển. Nó thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống cộng đồng. Khái niệm bản sắc Huế của tác phẩm có hai quan hệ cơ bản: quan hệ bên ngoài là dấu hiệu hình thức của tác phẩm mà tác giả sử dụng và quan hệ bên trong chỉ dấu hiệu của kinh nghiệm sống phong phú của tác giả. Khi nói đến bản sắc văn hóa Huế, chúng ta cũng không thể quy tất cả về văn hóa dân gian Huế. Văn hóa dân gian là “văn hóa gốc”, “văn hóa mẹ”, tức văn hóa khởi nguồn, sản sinh và nuôi dưỡng các hình thức phát triển cao sau này, như văn hóa chuyên nghiệp, bác học, cung đình. Văn hóa dân gian Huế còn là văn hóa của quần chúng lao động Huế, mang tính bản địa, tính nội sinh cao. Tất cả các nhân tố kể trên, khiến cho văn hóa dân gian Huế hàm chứa và thể hiện tính bản sắc cao của văn hóa vùng miền. Nếu cho rằng văn hóa dân gian chứa đựng và thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, thì trong sáng tác mỹ thuật, yếu tố dân gian phải được tiềm ẩn trong giá trị của tác phẩm mỹ thuật. Cho dù đời sống mỹ thuật hiện nay, các tác giả không tiếp tục làm tranh Sình, đục tượng đá lăng mộ, sử dụng các mô típ phù điêu trong trang trí kiến trúc, nhưng tinh thần của nó phải được phảng phất trong các sán ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TƯ DUY BẢN SẮC VĂN HÓA HUẾ TRONG SÁNG TÁC MỸ THUẬT TƯ DUY BẢN SẮC VĂN HÓA HUẾ TRONG SÁNG TÁC MỸ THUẬT CÔNG HUYỀN TÔN NỮ TUYẾT MAI- Âm sắc Huế-Sơn dầu Văn hóa là một khái niệm có nội hàm rất rộng, là một cấu trúc có bề sâu, tức nó tồn tại trong tiềm thức của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng trong quá trình sinh sống và được lưu truyền qua nhiều thế hệ, tạo thành bản sắc riêng phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Văn hóa là tổng hợp mọi giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình cải tạo thiên nhiên. Văn là đẹp tươi. Hóa là biến đổi. Văn hóa là tùy theo trình độ của con người mà có sự biến đổi theo xu hướng đẹp tươi. Văn hóa là những gì tồn tại theo thời gian, được thể hiện qua những biểu hiện sống hàng ngày của một dân tộc, quốc gia hay cộng đồng. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là thước đo trình độ phát triển của một dân tộc. Những tác phẩm mỹ thuật được sáng tạo và trưng bày thông qua chất liệu vật chất cụ thể, nhưng bản thân chúng đồng thời là văn hóa tinh thần của thời đại và khi nó có giá trị đi vào lịch sử mỹ thuật sẽ trở thành di sản văn hóa vật thể. Cấu trúc bản sắc văn hóa Huế được thể hiện ở mối quan hệ giữa danh và thực (nặng về danh tiếng, xem nhẹ thực chất), giữa hình thức và nội dung (chú trọng hình thức, thiếu quan tâm nội dung), giữa thực tại và tương lai (chỉ thấy trước mắt sẵn sàng đối phó với thực tại, ít nghĩ đến tương lai bỏ qua phòng ngừa). Như vậy, cấu trúc bản sắc văn hóa Huế, chứa đựng các mặt mâu thuẫn. Các mặt này can thiệp vào nhau, ức chế và cản trở lẫn nhau, dung hòa với nhau, không cho phép phát triển đến các trạng thái cực đoan để duy trì các mối quan hệ ổn định đặc biệt và do đó, không thể tạo nên một bước nhảy văn hóa để tiến lên làm thay đổi căn bản cơ cấu của cộng đồng. Những điều nói trên cũng giải thích được lý do vì sao trong tiến trình lịch sử phát triển Huế thời đại Tự Đức không chấp nhận những đầu óc canh tân, bản lĩnh Nguyễn Trường Tộ. Nhìn chung, sự thay đổi trong thể chế xã hội thường diễn ra một cách từ từ, chậm chạp. Người Huế không chấp nhận từ cực đoan này đến cực đoan khác. Thời bao cấp, mỹ thuật Huế có phong cách hiện thực xã hội chủ nghĩa không thể chấp nhận một họa sĩ có phong cách phi hiện thực là điều đương nhiên. Khi mỹ thuật phi hiện thực hấp dẫn người Huế, thì gần như mỹ thuật hiện thực bị bỏ rơi. Tìm cách thiết lập mối quan hệ mới trong cấu trúc bản sắc văn hóa để tiến tới một nền văn minh dựa vững chắc vào những truyền thống tốt đẹp vốn tạo thành bản sắc văn hóa Huế là điều thế hệ các tác giả mỹ thuật Huế cần phải đối mặt. Trong sáng tác, các tác phẩm mỹ thuật Huế không có cái mạnh mẽ của người Nam bộ, cũng thiếu cái chắc chắn của dân miền Bắc. Dương Đình Sang với những tác phẩm của mình, bàng bạc màu sương khói Huế, là thế giới của mộng tưởng nhiều ẩn dụ, là sự liên kết giữa khoảng không và vật chất. ẩn dưới những hình tượng nghệ thuật là phận người, những trải nghiệm cuộc đời trên nền xanh sâu thẳm của sông Hương, của tiếng vọng âm thanh vách đá thời gian dẫn chúng ta đi vào không gian thuần khiết và mãnh liệt, thơ mộng và chân thật. Lê Quý Long bay bổng trong áng văn lời thơ tuổi học trò. Màu tím trong âm sắc Huế của công Huyền Tôn nữ Tuyết Mai vừa kín đáo vừa nồng ấm. Ngọc Anh với tác phẩm điêu khắc đá Sóng ngầm tham dự trại sáng tác điêu khắc quốc tế tại Huế lần thứ nhất năm 1998 vừa thâm trầm vừa dữ dội đầy khát vọng theo cách của người Huế. Cuộc sống đa dạng của cộng đồng được biểu hiện trên bề mặt của xã hội, còn văn hóa có cấu trúc tiềm ẩn dưới bề mặt đó, nằm ở tầng sâu trong tiềm thức của con người, hình thành nên các quy tắc hướng dẫn tư duy, điều chỉnh hành vi ứng xử và phương thức hành động cũng như sự lựa chọn các thang bậc giá trị trong xã hội. Như vậy, cấu trúc văn hóa là cái tiềm ẩn và vô thức, không dễ nhận ra và rất khó mô tả, được hình thành một cách có phân hóa hướng vào các mục đích khác nhau và được tạo nên bởi các ý niệm khi tiếp xúc với những cái xa lạ. Có ba ý niệm cơ bản trong cấu trúc văn hóa Huế: ý niệm tâm linh, ý niệm ứng xử và ý niệm thẩm mỹ. ý thức sâu sắc được cấu trúc bản sắc văn hóa Huế, người sáng tác mỹ thuật ở Huế mới mong có được sự đột phá vươn lên từ các trường phái mỹ thuật hiện nay. Chính vì vậy, tư duy sáng tạo trên cơ sở của những tỷ lệ vàng Ngọ môn, không gian trầm mặc của phong cảnh Huế, dáng thiếu nữ mỏng manh trong sương khói mờ ảo, tím Huế, ngũ sắc Huế hoặc gam màu huyền ảo mộng mơ mà nhiều tác giả đã tạo ra bản sắc văn hóa Huế rất đặc sắc trong các tác phẩm mỹ thuật. Bản sắc văn hóa Huế - tiềm năng và là thế mạnh của người Huế - mà mỗi ngày những người sáng tác mỹ thuật có bản sắc văn hóa Huế thường phải chú ý trong hoạt động sáng tạo của mình. Bản sắc văn hóa Huế là cái cốt lõi, đặc trưng riêng có của người Huế trong lịch sử tồn tại và phát triển. Nó thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống cộng đồng. Khái niệm bản sắc Huế của tác phẩm có hai quan hệ cơ bản: quan hệ bên ngoài là dấu hiệu hình thức của tác phẩm mà tác giả sử dụng và quan hệ bên trong chỉ dấu hiệu của kinh nghiệm sống phong phú của tác giả. Khi nói đến bản sắc văn hóa Huế, chúng ta cũng không thể quy tất cả về văn hóa dân gian Huế. Văn hóa dân gian là “văn hóa gốc”, “văn hóa mẹ”, tức văn hóa khởi nguồn, sản sinh và nuôi dưỡng các hình thức phát triển cao sau này, như văn hóa chuyên nghiệp, bác học, cung đình. Văn hóa dân gian Huế còn là văn hóa của quần chúng lao động Huế, mang tính bản địa, tính nội sinh cao. Tất cả các nhân tố kể trên, khiến cho văn hóa dân gian Huế hàm chứa và thể hiện tính bản sắc cao của văn hóa vùng miền. Nếu cho rằng văn hóa dân gian chứa đựng và thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, thì trong sáng tác mỹ thuật, yếu tố dân gian phải được tiềm ẩn trong giá trị của tác phẩm mỹ thuật. Cho dù đời sống mỹ thuật hiện nay, các tác giả không tiếp tục làm tranh Sình, đục tượng đá lăng mộ, sử dụng các mô típ phù điêu trong trang trí kiến trúc, nhưng tinh thần của nó phải được phảng phất trong các sán ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
văn hóa huế mỹ thuật việt nam mỹ thuật đương đại kiến thức mỹ thuật danh họa tác phẩm hội họa mỹ thuật truyền thôngTài liệu có liên quan:
-
Tranh biếm họa trào phúng của họa sỹ Pawel Kuczynski
10 trang 349 0 0 -
Tài liệu Lịch sử mỹ thuật Việt Nam
20 trang 173 4 0 -
Một số tác giả, tác phẩm của hội họa cách mạng Việt Nam
39 trang 99 0 0 -
7 trang 88 0 0
-
10 trang 64 0 0
-
Sơ lược về Mỹ thuật thời Trần (1226-1400)
10 trang 63 0 0 -
Giáo trình Vẽ mỹ thuật 1: Vẽ bút sắt - Trần Văn Tâm
46 trang 62 1 0 -
CHÂN DUNG HỌA SỸ NGUYỄN GIA TRÍ
3 trang 53 1 0 -
8 trang 51 0 0
-
Design trong thiết kế Mỹ thuật vì cuộc sống
9 trang 50 0 0 -
TRANH GƯƠNG CUNG ĐÌNH MỸ THUẬT HUẾ
7 trang 49 0 0 -
5 trang 48 0 0
-
QUANG LONG TỰ CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC ĐỘC ĐÁO
5 trang 48 0 0 -
MỖI BỨC TRANH MỸ THUẬT - MỘT TẤM LÒNG
11 trang 48 0 0 -
ĐÔI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT MỸ THUẬT SƠN MÀI VIỆT NAM
8 trang 46 0 0 -
Tìm hiểu về Tranh dân gian Việt Nam: Phần 2
14 trang 45 0 0 -
5 trang 44 0 0
-
CON ĐƯỜNG GỐM SỨ MỸ THUẬT-TỪ Ý TƯỞNG ĐẾN HIỆN THỰC
7 trang 43 0 0 -
6 trang 43 0 0
-
CON CHUỘT TRÊN GỐM CỔ MỸ THUẬT
6 trang 43 0 0