Danh mục tài liệu

Vài nét sơ lược về sự Phát triển của Triết học Trung Hoa - Phần 2

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 146.81 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ai cũng nhận rằng triết học Trung Quốc sinh mạnh mẽ ở thời này vì tình trạng xã hội loạn lạc, triết gia nào có tâm huyết cũng tìm cách cứu vớt dân, nên đưa ra giải pháp này, giải pháp khác, lập thành một học thuyết để truyền bá trong dân chúng và mong các nhà cầm quyền đem ra áp dụng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vài nét sơ lược về sự Phát triển của Triết học Trung Hoa - Phần 2 Vài nét sơ lược về sự Phát triển của Triết học Trung Hoa THỜI ĐẠI TIÊN TẦN XÃ HỘI THỜI XUÂN THU, CHIẾN QUỐC Đã phát qua những nét chính trong lịch sử và phân chia các thời đạirồi, bây giờ chúng ta xét lịch trình tiến triển của triết học Trung Quốc. Chúng ta trở về thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Ai cũng nhận rằng triết học Trung Quốc sinh mạnh mẽ ở thời này vìtình trạng xã hội loạn lạc, triết gia nào có tâm huyết cũng tìm cách cứu vớtdân, nên đưa ra giải pháp này, giải pháp khác, lập thành một học thuyết đểtruyền bá trong dân chúng và mong các nhà cầm quyền đem ra áp dụng.Cảnh hỗn loạn, mất kỷ cương thời đó đã được chép trong sử. Người ta tínhra có tới 36 vụ giết vua, còn những vụ con giết cha, anh em, vợ chồng sát hạilẫn nhau không biết bao nhiêu mà kể. Không có năm nào không có chiến tranh. Theo Xuân Thu (Lỗ sử)trong 242 năm có 483 lần hành quân. Kinh Thi còn ghi lại cho ta những lờithở than của dân chúng vì nạn chiến tranh bất tận đó. Mọi người điêu đứng,nhất là bọn chinh phu, thậm chí tới cây cũng phải khô xám vì bị tàn phá: -----Hà thảo bất huyền? Hà nhân bất căng? -----Ai ngã chinh phu, độc vi phỉ dân?[1] -----------------------------------Thiên TIỂU NHÃ Người ta ngao ngán, tiếc rằng đã lỡ sinh ra đời: -----Thiều chi hoa, kỳ diệp thanh thanh, -----Tri ngã như thử, bất như vô sinh.[2] -----------------------------------Thiên VƯƠNG PHONG Khổ vì chiến tranh, dân đen lại khổ vì đàn áp, bốc lột của bọn cầmquyền; bọn này dùng uy quyền chiếm đất và chiếm cả người nữa: -----Nhân hữu thổ điền, nhữ phản hữu chi. -----Nhân hữu nhân dân, nhữ phúc đoạt chi.[3] -----------------------------------Thiên ĐẠI NHÃ Bọn họ không cày không cấy mà vẫn có lúa đầy vựa, không săn bắnmà vẫn chồn treo đầy sân: -----Bất giá bất sắc, hồ thủ tam bách triền[4] hề? -----Bất thú bất liệp, hồ chiêm nhĩ đình hữu huyền hoàn hề.[5] -----------------------------------Thiên QUỐC PHONG Bọn ăn không (tố san) đó, dân chúng rất oán, nhưng không dám nóithẳng ra, mà ví với những con chuột lớn, gặm lúa của họ: -----Thạc thử, thạc thử, vô thực ngã thử, -----Tam tuế quán nhữ, mạc ngã khẳng cố.[6] -----------------------------------Thiên QUỐC PHONG Nhưng chẳng phải chỉ có lê dân mới khổ, bọn quí phái trong thời loạncó khi còn chịu nhiều nỗi cay đắng hơn nữa. Thiên Bội phong tả cảnh bọnchư hầu vong quốc: -----Toả hề vĩ hề, lưu li chi tử.[7] (Nhỏ mọn hèn mạt thay, cái thân của những kẻ trôi dạt xứ người). -----Niệm ngã độc hề, ưu tâm ân ân.[8] -----------------------------------Thiên TIỂU NGÃ (Nghĩ cảnh cô đơn của ta, lo lắng ngùi ngùi). Càng về cuối đời Chiến Quốc, tình cảnh càng bi đát: nước Vệ bắt línhtới 1 phần 5 dân số, nước Tấn bắt ông già 73 tuổi ra tòng quân, nước Tề thuthuế của dân tới 2 phần 3 hoa lợi, ruộng đất bỏ hoang, có kẻ đói quá, phảiđổi con cho nhau mà ăn thịt (dịch tử nhi thực)! Tuy nhiên, nếu chỉ xét cảnh loạn lạc thời đó thì chưa đủ giải thíchđược sự bột phá của triết học Trung Hoa được; đời sau cũng có những thờiloạn kéo dài hằng trăm năm, chẳng hạn thời Tam quốc, thời Lục triều, cuốiđời Tống… mà không lưu lại được một cuộc cách mạng nào lớn lao trongtriết học. Nguyên nhân quan trọng nhất vẫn là sự biến chuyển trong tươngquan xã hội với những biến chuyển về các phương diện chính trị, kinh tế,văn hóa… Cái thế ở đầu đời Chu (trong nước có cả ngàn chư hầu) chỉ vững đượckhi nhà Chu còn mạnh. Lúc nhà Chu đã yếu[9], sợ các rợ ở phương Tây màdời đô qua phương Đông thì các chư hầu không kính nể thiên tử nữa, tấttranh giành nhau mà gây loạn, có nước mạnh lên, có nước suy đi. Thế là cómột bọn quý tộc mất địa vị. Muốn phục hồi địa vị, họ phải dùng nhữngngười tài giỏi về chính trị hoặc quân sự, kinh tế, trong mọi giai cấp, nghĩa làtrong gia cấp bình dân. Nhờ vậy mà bọn này thoát ly được địa vị nô lệ và lênđịa vị sĩ phu. Đời Xuân Thu, ta thấy có Ninh Thích chăn trâu mà làm quan,Bách Lý Hề vốn là nô lệ mà được cử làm quan nước Tấn; còn hạng quý tộcnhư họ Nguyên, Hồ, Khánh, Bá… bị giáng làm nô lệ (Tả truyện); Khổng Tửvốn là dòng dõi quý tộc ở Tống mà nghèo, phải làm một chức lại coi kholúa. Lại thêm kinh tế mở mang cũng là một nguyên nhân thúc đẩy sự biếnchuyển về chính trị nữa. Dân số tăng lên (tổng số nhân khẩu thất quốc đời Đông Chu đã tớikhoảng 20 triệu), chế độ điền địa hồi trước không còn hợp thời, nông dâncực khổ quá, ta thán, oán trách bọn chủ nhân (bất giá bất sắc, hồ thủ tambách triền hề), thầm mong bãi bỏ chế độ “thực ấp”; và Thương Ưởng hiểu rõxu thế tự nhiên của thời đại, cho dân chúng tự do khai khẩn. Phươ ...

Tài liệu có liên quan: