Danh mục tài liệu

VĂN TRẦN NHÂN TÔNG

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 121.38 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

VĂN TRẦN NHÂN TÔNGHÀNH TRẠNG CỦA THƯỢNG SĨ TUỆ TRUNG Thượng sĩ là con trai đầu (lòng) của Khâm Minh Từ Thiện Thái Vương và anh cả của Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu. Khi thái vương mất, Hoàng đế (Trần) Thái Tông cảm nghĩa, phong cho tước Hưng Ninh Vương. Thuở nhỏ, Thượng sĩ bẩm tính thanh cao, nổi tiếng thuần hậu, được giao trấn giữ quân dân ở lộ Hồng. Hai lần giặc Bắc xâm lược, có công với nước, lần hồi được thăng chuyển giữ chức Tiết độ sứ vùng biển trại Thái Bình. Con người...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
VĂN TRẦN NHÂN TÔNG VĂN TRẦN NHÂN TÔNGHÀNH TRẠNG CỦA THƯỢNG SĨ TUỆ TRUNGThượng sĩ là con trai đầu (lòng) của Khâm Minh Từ Thiện Thái Vương và anh cảcủa Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu. Khi thái vương mất, Hoàng đế(Trần) Thái Tông cảm nghĩa, phong cho tước Hưng Ninh Vương.Thuở nhỏ, Thượng sĩ bẩm tính thanh cao, nổi tiếng thuần hậu, đ ược giao trấn giữquân dân ở lộ Hồng. Hai lần giặc Bắc xâm lược, có công với nước, lần hồi đượcthăng chuyển giữ chức Tiết độ sứ vùng biển trại Thái Bình.Con người Thượng sĩ, khí lượng thâm trầm, phong thái nhàn nhã, từ tuổi để chỏm,rất mến cửa không. Đến tham vấn Thiền s ư Tiêu Dao ở Phúc Đường, lĩnh hội yếuchỉ, bèn dốc lòng thờ làm thầy, ngày ngày chỉ lấy niềm vui thiền làm thích, khônghề vì công danh mà trở ngại. Rồi lui về sống ở phong ấp Tịnh Bang, đổi làmhương Vạn Niên.Thượng sĩ cùng đời hòa quang, chưa từng đụng chạm người vật, nên hay mạnh nốigiống pháp, dìu dắt sơ cơ. Ai tìm đến hỏi, người cũng chỉ bảo cho biết điều c ươngyếu, khiến họ trụ tâm, mặc tính hành tàng, không mắc danh thực.Đức Dụ Lăng mộ tiếng từ lâu, sai sứ vời vào cửa khuyết. Phàm những lời hầuchuyện nhà vua đều là siêu tục. Nhân thế, vua suy tôn làm sư huynh và ban chotên hiệu hiện nay.Một lần vào chầu, Thái hậu làm tiệc lớn đãi, Người gặp thịt cứ ăn. Thái hậu lấylàm lạ hỏi rằng: “Anh tu thiền mà ăn thịt thì thành Phật sao được?”. Thượng sĩcười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật cũng chẳng cầnlàm anh. Em chẳng nghe cổ đức nói ‘Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát’đó sao?”Khi Thái hậu qua đời, đức Dụ Lăng trai tăng ở cung cấm. Nhân khi khai đườngthuyết pháp bèn mời danh tăng bốn phương mỗi người làm một bài kệ ngắn để bàytỏ kiến giải của mình. Nhưng thảy đều “ngầu bùn sũng nước” chưa có chỗ ngộ.Đức Dụ Lăng bèn đem giấy đến cho Thượng sĩ. Thượng sĩ viết một hơi xong bàitụng tự thuật như sau:Kiến giải bày kiến giải,Tựa dụi mắt làm quái.Dụi mắt làm quái rồi.Sáng sủa thường tự tại.Đức Dụ Lăng xem xong, viết tiếp:Sáng sủa thường tự tại,Cũng dụi mắt làm quái.Thấy quái không thấy quái,Quái kia liền tự hoại.Thượng sĩ rất tâm phục bài kệ ấy.Tới khi Đức Dụ Lăng ốm, Thượng sĩ viết thư hỏi bệnh. Mở ra xem, Đức Dụ Lăngviết kệ trả lời, có câu:Mực nồng khí nóng mồ hôi đẫm,Quần mẹ sinh ta ướt chửa từng.Thượng sĩ đọc bài kệ, than thở giây lâu. Đến khi Đức Dụ Lăng trở bệnh nặng,Thượng sĩ tất tả tới cửa khuyết thì nhà vua đã quy tiên rồi.Nay ta cũng nguyện đội ơn dạy dỗ của Thượng sĩ. Trước đây, khi ta chưa xuất gia,gặp lúc cư tang Nguyên Thánh mẫu hậu, nhân đó có đi thỉnh Thượng sĩ. Ngườitrao cho hai bộ ngữ lục của Tuyết Đậu và Dã Hiên.1 Ta cho người sống quá tục,sinh ngờ vực, bèn làm ra vẻ ngây thơ hỏi: “Chúng sinh quen cái nghiệp uống rượuvà ăn thịt, thì làm sao tránh được tội báo?” Thượng sĩ liền giảng giải rằng: “Giảthử có một người đứng quay lưng lại, thình lình có nhà vua đi qua phía sau, ngườikia không biết, hoặc có ném vật gì vào người vua. Người ấy có sợ chăng? Vua cógiận chăng? Như thế thì biết rằng hai việc không liên quan gì đến nhau vậy.” Nóirồi Thượng sĩ đọc hai bài kệ:Vô thường các pháp hành,Tâm ngờ tội liền sanh.Xưa nay không một vật,Chẳng mống cũng chẳng mầm.Ngày ngày khi đối cảnh.Cảnh cảnh từ tâm ra.Xưa nay không tâm cảnh.Chốn chốn thảy bờ kia.Ta lĩnh ý, giây lâu bèn nói: “Tuy là như thế, nhưng tội phúc đã rõ ràng thì làm thếnào?”.Thượng sĩ lại đọc tiếp bài kệ để chỉ bảo:Ăn cỏ và ăn thịt,Chúng sinh mỗi có thức.Xuân về muôn cỏ sinh,Chỗ nào thấy tội phúc.Ta nói: “Nếu vậy thì công phu giữ giới trong sạch không chút xao lãng là để làmgì?” Thượng sĩ cười mà không đáp. Ta cố nài. Thượng sĩ lại đọc tiếp hai bài kệ đểấn chứng cho ta:Trì giới và nhẫn nhụcChuốc tội chẳng chuốc phúc.Muốn biết không tội phúc,Đừng trì giới nhẫn nhục.Như khi người leo cây,Đang yên tự tìm nguy.Nhu người không trèo nữa,Trăng gió làm được gì.Đoạn người dặn kín ta: “Chớ có bảo cho người không đáng bảo.” Vì vậy ta biếtmôn phong của Thượng sĩ thật là siêu việt.Một hôm, ta hỏi người về tôn chỉ công việc mình. Thượng sĩ ứng khẩu đáp: “Hãyquay nhìn lại công việc của chính bản thân mình chứ không tìm đâu khác được.”Ta bỗng bừng tỉnh con đường phải đi, bèn xốc áo, thờ làm thầy.Ôi! Thượng sĩ là người thần thái nghiêm trang, cử chỉ đĩnh đạc. Bàn huyền thuyếtdiệu như gió mát trăng thanh.Đương thời thạc đức các phương, có người cho Thượng sĩ tin sâu biết rõ, làmngược làm xuôi, thật khó mà lường được.Sau, người nhuốm bệnh ở trang Dưỡng Chân, không ở phòng riêng, mà cho kêmột chiếc giường gỗ giữa ngôi nhà trống, nằm theo thế cát tường, nhắm mắt màtịch. Người hầu hạ và thê thiếp trong nhà khóc rống lên. Thượng Sĩ mở mắt ngồidậy, gọi người lấy nước rửa tay, súc miệng, đoạn quở nhẹ rằng: “Sống chết là lẽthường, làm gì phải xót thương quyến luyến làm rối chân tính của ta?” Dứt lờingư ...