Danh mục tài liệu

BÀN VỀ CẢI CÁCH HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Số trang: 6      Loại file: doc      Dung lượng: 95.00 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong bối cảnh nguồn lực tài chính quốc gia còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn, cùng với việc cải cách các cơ chế, chính sách về an sinh xã hội (ASXH), vấn đề đảm bảo nguồn lực tài chính lâu dài, bền vững và cơ chế quản lý tài chính phù hợp cho các hoạt động ASXH đã và đang trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm cấp bách đối với nền kinh tế trong những năm tới.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BÀN VỀ CẢI CÁCH HỆ THỐNG AN SINH Xà HỘI Ở VIỆT NAM BÀN VỀ CẢI CÁCH HỆ THỐNG AN SINH XàHỘI Ở VIỆT NAM TS. Đỗ Ngọc HuỳnhCập nhật ngày: 03/11/2010 Trong bối cảnh nguồn lực tài chính quốc gia còn hạn chế  và  gặp nhiều khó  khăn, cùng với   việc cải cách các cơ chế, chính sách về an sinh xã hội (ASXH), vấn đề đảm bảo nguồn lực tài   chính lâu dài, bền vững và cơ chế quản lý tài chính phù hợp cho các hoạt động ASXH đã và   đang trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm cấp bách đối với nền kinh tế trong những năm   tới. 1.Thực trạng hệ thống ASXH ASXH thường  được hiểu là  việc  đảm bảo  đời sống cho các tầng lớp dân cư  trong xã  hội  đạt   được những tiêu chuẩn nhất  định  để   đảm bảo  ổn  định kinh tế  ­ xã  hội. Theo nghĩa rộng, ASXH  bao gồm toàn bộ các hoạt động đảm bảo đời sống cho nhân dân. Mục tiêu cơ  bản của ASXH có  thể  khái quát bao gồm  đảm bảo an ninh thu nhập, giảm  nghèo, giảm bất bình đẳng, bảo vệ các đối tượng yếu thế và đảm bảo sự ổn định, gắn kết xã hội.  ASXH đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Hệ  thống ASXH thường gồm các cấu phần chủ  yếu là  nhóm BHXH (bao gồm các hình thức   BHXH và  BHYT), bảo trợ  xã  hội,  ưu  đãi xã  hội, và  các dịch vụ  xã  hội khác. Trong  đó, nhóm   BHXH  đóng vai trò  trọng tâm của hệ  thống.  Ở  Việt Nam, Luật Bảo hiểm xã  hội  được thông qua  ngày 29/6/2006, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007, quy  định các chế độ BHXH bắt buộc, BHXH   tự  nguyện và  BH thất nghiệp. Về  BHYT, chínhsách BHYT  được coi là  chế   độ  khám chữa bệnh  (KCB) của chính sách BHXH. Trước năm 1992, mọi chi phí  KCB do NSNN chi trả. Kể  từ  năm  1992, chế   độ  BHYT mới  được triển khai và  Luật Bảo hiểm Y tế   được ban hành vào năm 2008  đánh dấu một bước cải cách quan trọng trong chế độ BHYT. Kết quả đạt được Hệ  thống chính sách ASXH  đã   được cải cách mạnh mẽ  từ   đầu những năm 1990  đến nay,  trong  đó  hệ  thống BHXH và  BHYT là  nòng cốt trên cơ  sở  nguyên tắc ba bên cùng tham gia  (người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước) để giảm bớt gánh nặng cho NSNN. Đây là   quá trình cải cách phù hợp với mô hình phân phối của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã   hội chủ  nghĩa có  sự   điều tiết của Nhà  nước. Quan hệ  mức  đóng và  mức hưởng  đã  tuân thủ  các   nguyên tắc của hoạt động BHXH theo từng chế độ riêng biệt. Phạm vi đối tượng tham gia các hình thức BHXH và BHYT ngày càng được mở rộng. Tổng số  người tham gia BHXH tăng từ 2,85 triệu người năm 1995 lên   8,7 triệu người năm 2008 (bằng gần  25% lực lượng lao  động cả  nước). Về  BHYT, số   đối tượng tham gia tăng mạnh từ  3,7 triệu năm  1993 lên 39,2 triệu người năm 2008, trong  đó  28,6 triệu người   tham gia BHYT bắt buộc; 10,6  triệu người tham gia BHYT tự nguyện.Hàng triệu người lao động đã được chi trả, trợ cấp theo các  chế độ BHXH như ốm đau, thai sản, hưu trí, tuất và mất sức lao động trực tiếp, đảm bảo đúng đối  tượng, chế độ, kịp thời và trực tiếp đến người thụ hưởng; không còn tình trạng nợ đọng lương hưu   và các chế độ BHXH khác. Hệ thống BHXH Việt Nam được quản lý tập trung thống nhất từ Trung ương đến địa phương,  được chuyên môn hoá   để  thực hiện các chính sách, chế   độ  BHXH qua việc tách hoạt  động của   sự nghiệp quản lý quỹ BHXH ra khỏi chức năng quản lý Nhà nước. BHXH Việt Nam thực hiện cải  cách hành chính, tổ  chức thực hiện tốt chức năng quản lý  thu ­ chi BHXH, cải tiến quy trình thủ   tục xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH trong cả nước, đảm bảo tính thống nhất, kịp thời, công bằng và  hiệu quả. Đã  hình thành cơ  chế  quản lý  tài chính thống nhất  đối với các loại hình BHXH, tạo căn cứ   pháp lý và điều kiện thuận lợi cho các hoạt động ASXH ngày càng phát triển trên phạm vi rộng và   quy mô lớn trên toàn quốc. Quy mô và tiềm lực tài chính của các quỹ ngày càng tăng cùng với sự  gia tăng của mức  đóng góp và chi trả. Tổng số dư các quỹ ASXH  đã lên đến hàng chục ngàn tỷ   đồng, tạo cơ sở cho việc phát triển quỹ và nguồn vốn đầu tư lớn cho nền kinh tế. Đối tượng hưởng bảo trợ  xã hội  được mở  rộng và  tăng nhanh, đảm bảo đáp  ứng kịp thời yêu  cầu thực tế phát sinh, qua đó góp phần  đảm bảo  ổn định kinh tế ­ xã hội. Trong giai  đoạn 1996­ 2005, có  trên 8 triệu người thuộc diện  được hưởng chế   độ   ưu  đãi, trong  đó  trợ  cấp  ưu  đãi hàng   tháng khoảng 1,5 triệu người. Mức trợ cấp cũng được điều chỉnh cho phù hợp với tăng trưởng kinh  tế, qua  đó   đảm bảo nâng dần mức sống cho các  đối tượng thụ  hưởng. Các gia  đình chính sách   xã  hội  được  đảm bảo mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình so với người dân trên   địa bàn. Một số tồn tại, hạn chế Hệ  thống ASXH phát triển chưa  đầy  đủ, toàn diện, thiếu sự  liên kết và  hỗ  trợ  nhau. Một số   chính sách ASXH còn tồn tại những bất hợp lý; Chưa có  các chính sách ASXH  đặc thù  và  phù   hợp với dân cư nông thôn và các vùng dân tộc, miền núi có điều kiện sống khó khăn. Diện bao phủ  của hệ  thống còn chưa cao, mới chỉ  tập trung vào các thành phố  lớn và  các   tỉnh  đồng bằng nơi có  hoàn cảnh sống thuận lợi, chưa mở  rộng  đối với những  đối tượng nông  thôn, miền núi vùng khó khăn; mạng lưới chủ yếu mới bao phủ khu vực kinh tế chính thức. Chất lượng cung cấp các dịch vụ  ASXH,  đặc biệt là  dịch vụ  y tế, còn hạn chế  và  chưa  đáp   ứng yêu cầu phát triển kinh tế  ­ xã  hội và  sự  gia tăng trong mức sống dân cư.   Hệ  thống hành  chính, sự  nghiệp cung cấp dịch vụ  ASXH chưa theo kịp yêu cầu phát triển thực tế, còn hạn chế  trong năng lực tổ chức và quản lý đối với các loại hình ASXH. Khả  năng cân  đối giữa nguồn và  sử  dụng của hệ  thống ASXH, kể  cả  các quỹ  BHXH, BHYT   và  các chế   độ  bảo trợ  xã  hội còn hạn chế  và  gặp thách thức lớn cả  trước mắt và  trong trung và  dài hạn. Theo đánh giá sơ bộ, các quỹ BHXH, BHYT  ở trong tình trạng báo động trong tương lai   gần, đặc biệt là đối với quỹ BHYT. Nguồn lực đầu tư cho ASXH củ ...

Tài liệu có liên quan: