Danh mục tài liệu

Báo cáo HƯ TỪ TIẾNG VIỆT THẾ KỶ XV TRONG QUỐC ÂM THI TẬP VÀ HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP

Số trang: 20      Loại file: pdf      Dung lượng: 164.85 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong nghiên cứu lịch sử từ vựng và ngữ pháp tiếng Việt, hư từ là một bộ phận không thể bỏ qua, bởi vì, đối với Việt ngữ, một ngôn ngữ đơn lập điển hình, hư từ là một phương thức ngữ pháp có vai trò cực kỳ quan trọng. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích và bước đầu nêu một số nhận xét về lớp hư từ tiếng Việt trong hai tác phẩm (viết bằng chữ Nôm) thế kỷ XV là Quốc âm thi tập (QA) và Hồng Đức quốc âm thi tập (HĐ)...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo "HƯ TỪ TIẾNG VIỆT THẾ KỶ XV TRONG QUỐC ÂM THI TẬP VÀ HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP " HƯ TỪ TIẾNG VIỆT THẾ KỶ XV TRONG QUỐC ÂM THI TẬP VÀ HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP Vũ Đức Nghiệu 1. Trong nghiên cứu lịch sử từ vựng và ngữ pháp tiếng Việt, hư từ là một bộ phận không thể bỏ qua, bởi vì, đối với Việt ngữ, một ngôn ngữ đơn lập điển hình, hư từ là một phương thức ngữ pháp có vai trò cực kỳ quan trọng. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích và bước đầu nêu một số nhận xét về lớp hư từ tiếng Việt trong hai tác phẩm (viết bằng chữ Nôm) thế kỷ XV là Quốc âm thi tập (QA) và Hồng Đức quốc âm thi tập (HĐ) nhằm góp thêm tư liệu để có thể hình dung được, tiến tới hiểu được diện mạo của hệ thống hư từ tiếng Việt thế kỷ XV. 2. Việc xác định và lập danh sách các hư từ của tiếng Việt hoàn toàn không đơn giản, bởi vì trên thực tế, trong tiếng Việt cũng như trong các ngôn ngữ đơn lập khác, ranh giới phân định giữa vấn đề của ngữ pháp với vấn đề của từ vựng nhiều khi rất không rành mạch. Ở đây, có nhiều hư từ đã hình thành từ thực từ nhờ những lý do khác nhau, trong đó, đáng kể và quan trọng nhất là quá trình ngữ pháp hoá; và ngay cả khi “đã hình thành hư từ rồi thì giữa những hư từ này và các thực từ tương ứng thường cũng vẫn còn bảo tồn những mối quan hệ khá rõ nét [3, tr. 274]. Nếu lấy những tiêu chí phổ biến, được đa số trong giới nghiên cứu chấp nhận, coi hư từ là những từ: a/ không có ý nghĩa từ vựng chân thực, hoặc chỉ có ý nghiã từ vựng mờ nhạt; b/ không có chức năng định danh; c/ làm công cụ để biểu đạt những ý nghĩa, phạm trù ngữ pháp nào đó của thực từ; (nói tóm lại là những từ có liên quan đến việc diễn đạt, biểu thị những loại ý nghĩa ngữ pháp); thì khi khảo sát hai tập thơ, chấp nhận và căn cứ vào hai bản phiên âm hiện đã công bố, đồng thời, quy những cách phiên âm khác nhau của cùng một hư từ vào làm một (chẳng hạn, liễn-lẫn à lẫn), chúng tôi xác định được 135 hư từ các 1PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com loại. Chúng được sử dụng 3920 lần trong tổng độ dài văn bản 26300 lượt từ (làm tròn số), chiếm khoảng 14,9% độ dài văn bản 1. Trong số 135 hư từ đó, điều dễ thấy đầu tiên là nếu so với trạng thái tiếng Việt hiện nay, chúng có thể được phân chia thành ba loại: Loại thứ nhất là những hư từ cổ (gồm những từ đã mất hoặc gần như mất hẳn trong đời sống tiếng Việt hiện đại), loại thứ hai là những hư từ hiện vẫn đang tồn tại trong tiếng Việt ngày nay nhưng đã có những biến đổi về ý nghĩa và cách dùng, loại thứ ba là những hư từ có thể nói là không biến đổi từ thế kỷ XV cho đến nay. Dưới đây là một số miêu tả và phân tích cụ thể. 2.1. Các hư từ cổ. Đây là loại bao gồm những hư từ đã vắng bóng trong đời sống hoạt động của tiếng Việt hiện đại. Nói rõ hơn, đó là những hư từ không còn được sử dụng trong giao tiếp thường nhật một cách bình thường nữa. Danh sách những hư từ này bao gồm: Bui (18 lần), mựa (35), nhẫn (32), sá (23), phô (3), tua (11), thửa (18), ru (1), vay (9), hoà (43), chỉn (20), chưng (45), lọ (26), luống (14), mấy (103), khôn (53), chăng (80), le (1), huống (10), ngõ (6), há (22), hề (7), đòi (19), tá (7), khá (21). Trong số các hư từ cổ này, có thể vạch được một đường phân giới khá rõ, chia chúng thành hai nhóm: nhóm gồm những từ đã hoàn toàn mất hẳn và nhóm gồm những từ chưa hoàn toàn mất hẳn trong tiếng Việt hiện đại. 2.1.a. Nhóm những hư từ cổ đã hoàn toàn vắng mặt trong tiếng Việt ngày nay: bui (18), chỉn ( 20 ), chưng (45), hoà ( 43 ), lọ (26), luống (14), mựa (35 ), nhẫn ( 32 ), phô ( 3 ), ru (1), sá ( 23 ), tua ( 11 ), thửa ( 18 ), vay ( 9 ). Trừ trường hợp từ chưng, tuy hoạ hiếm, nhưng vẫn còn có thể còn gặp trong lối nói giả cổ như vì chưng, bởi chưng, mười bốn hư từ trên đây hoàn 1 Tất nhiên, vì quan niệm về từ hư từ có thể rộng, hẹp khác nhau, việc xác định ranh giới từ có thể khác nhau ít nhiều giữa những người nghiên cứu, việc phiên âm văn bản nôm cũng có thể có ít nhiều dị biệt, cho nên những con số thống kê có thể có những xê xích một chút. Tuy vậy, chúng tôi đã ước lượng, những dị biệt đó thực sự kh ...